Tổng Hội Nha Kỹ Thuật
Tự
Truyện
Chủ đề:
Lính
Tác giả:
Chánh Nguyễn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Mấy chiếc trực thăng UH1 vừa thả 3 toán chúng tôi xuống đỉnh
Đồng Đen đã cất lên cao bay về căn cứ. Chúng tôi đến thay các
toán khác về và yểm trợ cho Trung đội 3 TQLC đóng chốt ở đây.
Chúng tôi nhanh chóng căng lều ổn định chỗ ở. Bọn tôi 4 trong số
33 đứa gồm: tôi, Lê Phước Hậu, Đặng Kim Hùng và Lê Văn Tam sau
khi rời Trung tâm huấn luyện Yên Thế (Long Thành) được đưa về
Đoàn 72. Tôi, Hậu và Hùng được bổ sung vào Toán 726 của Thiếu úy
Quách Tố Long, còn Tam qua toán khác. Chúng tôi là lính mới tò te
và đây là lần đầu tiên tham dự một cuộc nhảy toán thật sự nên có
đôi chút háo hức và bỡ ngỡ. Chúng tôi được phân công trực gác và
có nhiệm vụ gài claymore mấy con đường khi trời tối. Nhưng, khi
mặt trời còn ngang tầm mắt thì Trung đội 3 TQLC được lệnh hành
quân thoái. Các toán trưởng của chúng tôi đã thống nhất với viên
thiếu úy trung đội trưởng TQLC tên Chung Quang Nhường là sẽ rút
theo sau TQLC khoảng nửa tiếng đồng hồ. Trời tối thật nhanh. Từ
trên đỉnh Đồng Đen nhìn xuống, mây trắng phủ lưng chừng núi nhìn
khung cảnh hết sức thần tiên và yên bình. Nhưng, lúc ấy tôi không
biết rằng trước khi nổi bão tố thì trời hết sức trong lặng, êm ả
như đánh lừa. Lúc này cũng vậy. Quả nhiên chỉ ít sau, đâu đó
trong không gian vẳng lại tiếng xe tăng như muốn xé tan cái tịch
mịch của màn đêm. Tôi đoán là xe tăng của vc, nhưng tôi không dám
hỏi.
Chúng tôi
theo con đường anh em TQLC đã đi trước đó mà xuống núi. Lúc còn
trên đỉnh thì dù trời tối, nhưng vẫn thấy lờ mờ và khô ráo.
Nhưng, khi chui vào rừng thì sương mù dầy đặc đọng trên lá tụ lại
rơi xuống như mưa và xung quanh những chiếc lá mục phát sáng như
muôn ngàn ánh mắt của ma trơi cứ nhìn chòng chọc vào chúng tôi
đầy đe dọa. Tuy vậy, trời tối đến nỗi tôi không thể thấy được bàn
tay của mình giơ trước mặt. Vì vậy, người đi sau cứ đâm sầm vào
ba lô người đi trước. Sau đó, ai đó đưa ra sáng kiến là treo
những nhánh cây phát sáng này sau ba lô để khi di chuyển nó sẽ
đong đưa, những người đi sau sẽ nhìn vào đó mà đi theo. Khoảng
một tiếng đồng hồ sau, chúng tôi bắt kịp trung đội TQLC và cả 2
lực lượng cùng nhau xuống núi. Đi được một lúc qua khỏi khu rừng
rậm, xung quanh không còn những ánh mắt ma trơi và mưa nữa. Chúng
tôi đã thấy được lờ mờ. Nhưng vào lúc này, tôi bất cẩn trượt chân
té nhào xuống triền núi. Do tôi cầm một cây M79 khá gọn, ít bị
vướng víu gì nên tôi cứ thế mà lao xuống. Nhờ có một thân cây
chắn ngang đã giữ tôi lại sau khi bị lộn 2 vòng. Ê ẩm nhưng may
mắn là tôi không bị sứt mẻ gì nghiêm trọng. Phía trên, tiếng anh
em vọng xuống nho nhỏ hỏi tôi có làm sao không? Có leo lên được
không? Tôi trả lời không sao rồi nhanh chóng lồm cồm bò lên hoà
nhập vào hàng ngũ rồi tiếp tục di chuyển. Chúng tôi cứ im lặng,
lầm lũi đi như những bóng ma. Nghĩ đến đó tôi chợt thấy thú vị:
Đúng là bóng ma biên giới không sai. Nhưng, tôi đâu ngờ rằng đó
là những giây phút sảng khoái hiếm hoi cuối cùng mà tôi tự thưởng
cho mình.
Trên
đường đi, có một tiền đồn của lực lượng địa phương quân. Chúng
tôi định ghé vào nghỉ ngơi một chút rồi sẽ tiếp tục xuống núi.
Nhưng, đó là một sai lầm đắt giá. Lúc ấy, đơn vị ĐPQ đóng trong
đồn đã bỏ đi hết và chúng tôi không thể liên lạc được với họ. Vì
vậy, khi gần đến đồn, trung đội TQLC đi trước đã vướng phải mìn
của chính đồng đội mình gài để ngăn vc. Sau tiếng nổ chát chúa
như xé toạc màn đêm, một số anh em TQLC chết liền tại chỗ, một số
bị thương, kể cả trung đội trưởng Chung Quang Nhường. Có một anh
bị nát 2 chân. Anh nói chúng tôi làm ơn bắn anh chết đi vì lúc
này không còn cứu viện, tiếp tế gì được nữa mà anh cũng không
muốn sống đời tàn tật. Nhưng, những anh em TQLC còn lại không thể
và chúng tôi cũng vậy. Anh bèn chửi chúng tôi là những kẻ hèn
nhát và vô số từ ngữ khó nghe khác chỉ nhằm khích chúng tôi bắn
anh chết đi. Chúng tôi chỉ im lặng và sau đó rút đi sau khi để
lại cho anh một khẩu súng. Đi được chừng mươi bước, chúng tôi
nghe một loạt đạn M16 vang lên. Dù đã biết trước kết cuộc, nhưng
sao vẫn nghe trong lòng áy náy, xót xa. Lúc này, nhiệm vụ mở
đường đã được chuyển cho các toán. Chúng tôi tìm đường khác đi
vòng qua đồn để tiếp tục xuống núi. Sau sự việc vừa rồi, chúng
tôi di chuyển một cách thận trọng nên tốc độ chậm lại và cũng là
để số anh em TQLC bị thương nhẹ nhưng vẫn còn đi, đứng được có
thể bám theo.
Chúng tôi xuống được gần tới chân núi thì đã quá trưa hôm sau.
Lúc này, chúng tôi được lệnh dừng lại nghỉ ngơi, ăn uống. Nhưng,
tôi đã quá mệt nên không thể nuốt nổi bất cứ thứ gì, chỉ khát
nước. Cũng lúc này, chúng tôi biết được rằng là đơn vị của chúng
tôi đóng ở Tiên Sa đã đi rồi, sau khi có anh em nào đó nêu thắc
mắc sao không gọi trực thăng bốc đi cho nhanh. Tuy vậy, có nguồn
tin an ủi là còn vài chiếc tàu của TQLC đang neo ngoài biển chờ
rước chúng tôi. Nhưng, tôi không biết được là từ nơi chúng tôi
đang đứng đến mấy chiếc tàu của TQLC là bao xa? Chúng tôi phải đi
bao lâu mới đến được nơi đó? Tôi đã được học về cách sử dụng bản
đồ và la bàn để xác định vị trí. Nhưng lúc này, trong tay tôi
không có chúng mà chỉ có khẩu M79 thô kệch và không hơn gì khúc
gỗ. (Vì sao tôi nói như thế sau này sẽ đề cập). Chừng 15 phút
sau, chúng tôi tiếp tục lên đường. Hoá ra, từ chỗ chúng tôi nghỉ
chân đến cái làng gần chân núi cũng không xa lắm. Nghe cái làng
này cũng thuộc phe “quốc gia” nên chúng tôi kêu anh em TQLC đi
trước để người trong làng nhận biết, vì các toán xâm nhập trang
bị giống vc nên không khéo lại có chuyện “ta đánh mình” thì không
hay chút nào. Nhưng, tất cả chúng tôi đều lầm. Khi những người
lính TQLC đầu tiên thấy được những mái nhà đầu tiên thì trong
làng phát ra tiếng loa phóng thanh kêu gọi chúng tôi buông súng
đầu hàng để được hưởng khoan hồng. Chúng tôi khựng lại giây lát
sau sự việc bất ngờ này. Tiếng loa vẫn tiếp tục lập đi, lập lại
cái điệp khúc đáng ghét đó như một cái đĩa hát bị cà lăm. Tôi
nhìn ngược lên cái nơi mà chúng tôi đã từ trên ấy xuống. Tôi
không thể nào nhận ra đỉnh Đồng Đen ở đâu bởi sự chập chùng,
trùng điệp của rừng núi Trường Sơn. Tôi thở dài ngán ngẫm khi
nghĩ tới cảnh phải quay ngược lên đó để tìm đường thoát khỏi cái
làng chết tiệt này. Nhưng, chỉ huy của tôi đã quyết định đi vòng
qua làng như đã đi vòng qua cái đồn ĐPQ trước đó để ra ngã 3 Huế,
nơi mà chúng tôi tin là còn những chiếc tàu của TQLC đang đợi.
Chúng tôi băng xuống ruộng lúa ngoài
bìa làng để qua ngọn đồi phía trước. Những thân lúa cao tới háng
và sình lầy đã làm chúng tôi di chuyển hết sức khó khăn. Vài anh
em đã bỏ ba lô để dễ dàng xoay trở. VC trong làng sau khi kêu gọi
chúng tôi đầu hành không được đã nổ súng. Từng tràng AK và rải
rác tiếng pháo cối đã nhắm về phía chúng tôi mà vang lên mỗi lúc
một dồn dập hơn. Số anh em đi trước đã lên được trên đồi, ẩn núp
sau mấy bụi sim và bắt đầu bắn trả. Đạn nổ vang trời đã phá tan
cái tĩnh mịch của một buổi chiều làng quê. Tôi và Hậu hình như là
những người đi sau cùng. Chúng tôi cũng lần lượt trút bỏ ba lô vì
những người đi trước đã vô tình làm cho sình nhão ra và cái lún
trở nên sâu hơn, khó khăn hơn khi muốn rút chân lên. Tôi đã mệt
lắm rồi, cơ hồ không muốn nhúc nhích nữa. Nhưng tôi không muốn bị
bỏ lại nơi đây. Tôi nhìn lên phía trước tìm đồng đội, chỉ để tự
an ủi là mình không đơn độc. Trên lưng đồi, tôi thấy Chuẩn úy
Nguyễn Trọng Vui thuộc toán khác nhưng cùng xâm nhập kỳ này, đang
hiên ngang sải bước cứ như chiến tranh đang diễn ra ở nơi nào
khác chứ không phải tại đây. Tôi thầm cảm phục sự dũng cảm của
anh ấy, người đã rất tự tin, bình thản trước cái chết đang chực
chờ. Bỗng nhiên, một trái đạn nổ sau lưng anh. Khói lửa, đất đá
bùng lên che khuất người anh. Sau khi khói bụi tan đi, tôi thấy
chiếc ba lô sau lưng và cây súng trên tay anh biến mất, quần áo
rách lỗ chỗ, nhưng anh vẫn tiếp tục đi lên đồi và khuất sau mấy
bụi sim. Tôi quay lại động viên Hậu ráng lên. Lúc này, Hậu đã bị
tụt lại đằng sau cách tôi vài mét. Có lẽ nó đã quá mệt. Tôi thấy
Hậu lấy bi–đông nước ra uống. Tôi nói cho tao uống với. Nó thảy
cái bi–đông cho tôi rồi xin tôi một trái lựu đạn (Không hiểu sao
Hậu lại không mang theo lựu đạn). Tôi tháo một trái M67 quăng cho
nó rồi mở nắp bi–đông uống một hơi, xong tôi quăng lại cho nó. Vì
đã quá mệt nên lực ném của tôi không đủ sức đưa cái bi–đông tới
chỗ nó. Nhưng, Hậu cũng không buồn chồm tới lấy cái bi–đông. Tôi
nghĩ chắc nó chờ khi bò tới sẽ lấy luôn cho tiện. Vì vậy, tôi
quay lại trước và tiếp tục bò. Được vài mét, tôi vạch bụi lúa án
trước mặt và thấy bờ ruộng kề bên. Tôi quay đầu về sau báo cho
Hậu biết đã tới bờ ruộng rồi, nhưng tôi thấy nó quỳ thẳng lên, 2
tay ôm trước bụng và mắt nhắm nghiền. Tôi thoáng có ý nghĩ thằng
này muốn tự sát nên la lên: Hậu! thì một tiếng nổ từ phía nó vang
lên, khói lửa bốc cao rồi nó đổ gục ra sau. Tận mắt chứng kiến
người bạn thân nhất của mình đã gắn bó với nhau, chia sẻ ngọt bùi
với nhau từ quân trường Đồng Đế (Nha Trang) đến Trung Tâm huấn
luyện Yên Thế (Long Thành) và cùng về một toán ở Đoàn công tác 72
rồi cùng đi một chuyến xâm nhập, bị chết không toàn thây như thế,
tôi đã khóc nức nở như một đứa trẻ.....
12/7/2016
Dù rất đau lòng, nhưng tôi không thể ở
dưới ruộng hoài được, tôi phải nhanh chóng theo những anh em khác
rời khỏi cái nơi chết tiệt này. Tôi vội bò thêm vài bước rồi lên
bờ, tức là tôi đã ở dưới chân đồi. Nhưng, tôi vô cùng hoảng hốt
khi nghe tiếng súng AK nổ tứ phía, cả trong những bụi sim “Thôi
rồi! Không lý nào vc đã chiếm đuợc chỗ nấp của anh em và đang bắn
những người khác?” Nhưng sau đó tôi đã kịp trấn tĩnh khi nhớ lại
lực lượng của chúng tôi cũng được trang bị AK47 như của vc để dễ
dàng trà trộn vào chúng. Tuy nhiên, tôi lại rơi vào sự phân vân
vì không biết sẽ chạy về hướng nào để không phải rơi vào tay vc.
Tôi phải vận dụng những kiến thức quân sự mà tôi đã được học tập
ở thao trường cũng như nhớ lại những mẩu chuyện chiến đấu của ba
tôi khi ông trao đổi với bạn bè bên những bữa tiệc sau khi hành
quân về (ba tôi là lính Đại đội 2 Trinh sát Dù) cùng với sự nhận
định cá nhân của mình để phân biệt tiếng súng nào của phe ta và
tiếng súng nào của địch. Như vậy, tiếng AK từ những bụi sim trên
đồi gần hơn và xen kẽ có tiếng M16 nhỏ hơn chắc là của anh em
mình. Nhưng, tôi lại phân vân khi nghĩ rằng mình có thể đoán sai
vì vc cũng có thể có M16 lắm chứ. Sau một thoáng chần chừ, tôi
quyết định chạy về phía những bụi sim vì nghĩ rằng nếu cứ đứng
một chỗ mà suy tính lung tung thì sớm muộn gì cũng ăn đạn.
Một liều, ba bảy cũng liều. Tôi mở khoá
an toàn cây M79 rồi chạy nhanh lên đồi về phía những bụi sim. Vừa
chạy, tôi vừa nhớ bài học về phản phục kích đã thụ huấn ở Đồng Đế
là khi bị phục kích, đừng nằm im một chỗ làm bia cho địch bắn mà
hãy xông lên tấn công lại chúng. Đó là cách tìm đường sống trong
cái chết. Nếu tôi nhận định sai chạy vào ngay ổ vc thì... cưa
luôn. Bây giờ thuật lại những điều này nghe rất dài dòng, nhưng
sự thực lúc bấy giờ những ý nghĩ ấy lướt qua trong đầu tôi cực kỳ
nhanh. Khi chạy đến chỗ bụi sim gần nhất, tôi thấy Thiếu úy Quách
Tố Long, toán trưởng của tôi cùng những anh em khác của cả 2 lực
lượng đang nã từng loạt đạn về phía ngôi làng. Sà vào bụi sim đầu
tiên, nơi có 2 anh lính TQLC đang nấp, tôi lại khóc vì những
trạng thái tình cảm trái ngược đang xen lẫn vào nhau giằng xé nội
tâm mình. Tôi vui vì mình đã nhận định đúng, tôi đã tìm được đồng
đội của mình. Tôi buồn vì nhớ đến Hậu đã không có được may mắn
như tôi và từ đây Hậu phải nằm lại một nơi hoàn toàn xa lạ, giữa
những người xa lạ và không biết có được chôn cất đàng hoàng không
hay bị vc kéo xác về đầu làng để cao giọng rêu rao là đã chiến
đấu anh dũng và bắn hạ được bao nhiêu tên “giặc”? Lát sau, khi
nhịp tim và cảm xúc đã trở lại bình thường, tôi nhìn quanh và
thấy 2 người lính TQLC cũng trạc tuổi tôi đang phân chia nhau bắn
một cây súng M16, tức là anh này bắn vài phát rồi đưa qua cho anh
kia. Hoá ra 2 anh chàng này chỉ có 1 cây súng. Tôi cũng không
thắc mắc tại sao lại như thế mà chỉ quan sát xem hành động của 2
anh chàng này, thấy cũng hay hay. Lúc đó, anh không có súng chỉ
tay vào một bụi cây xa xa và nói với anh đang cầm súng:
– Có một thằng ở bụi cây kia kìa, mầy
có thấy hôn?
–
Thấy rồi! Mầy coi tao hạ nó nè.
Nói xong, anh cầm súng kê lên vai lấy
đường ngắm. Tôi nhìn về hướng mũi súng thì thấy một tên mặc bộ
quần áo lính không ra lính mà dân cũng chẳng phải dân đang lum
khum di chuyển từ bụi cây này sang bụi cây khác. Nó đang tìm cách
đến gần chúng tôi hơn. Tôi thầm ước lượng khoảng cách từ chỗ
chúng tôi đến tên vc chỉ từ 250 đến 300m. Tầm này thì dư sức
“lượm” thằng vc kia. Hồi ở quân trường, tôi học bắn cũng không tệ
nên mới dám nghĩ thế. Một tiếng nổ chát chúa phát ra từ họng súng
của anh chàng TQLC, tên vc vẫn tiếp tục di chuyển:
– Trật rồi mầy. Đưa tao.
– Để tao bắn phát nữa!
– Thôi! Đưa đây tao. Mầy mà bắn trật
nữa là nó tới sát đây luôn bây giờ.
Không biết có phải nghe anh kia hù hay
không mà chàng này trao súng lại cho chàng kia liền. Chàng kia
đón lấy cây súng rồi đưa lên vai lấy đường ngắm–đúng–tên vc vẫn
không bị gì.
–
Mầy bắn cũng đâu hơn gì tao mà bày đặt. Đưa đây tao.
Lúc này, tôi không thèm quan tâm đến 2
anh chàng TQLC kia xem ai sẽ là người bắn phát kế tiếp. Trước đây
tôi nghe nhiều người nói khói súng làm người ta hăng lên không
còn cảm thấy sợ hãi nữa. Tôi không biết có đúng không, nhưng tôi
nghĩ đó là sự tự tin khi được cầm trong tay một thứ có khả năng
làm mình cảm thấy mạnh mẽ hơn mà thôi. Tôi cũng có thứ ấy trong
tay và muốn chứng minh mình cũng rất mạnh mẽ. Tôi ghếch nòng cây
M79 lên và ước lượng khoảng cách, xong tôi bóp cò tạch –
không nổ! Tôi hạ súng xuống, mở nòng,
lấy viên đạn ra xem xét từ trong nòng súng đến viên đạn để tìm
nguyên nhân vì sao bắn không nổ? Tất cả đều sạch sẽ và khô ráo dù
đã trải qua một đêm lội dưới sương và khi lóp ngóp dưới ruộng,
tôi vẫn cố giữ súng không bị ướt. Tôi lại lắp đạn vào, đóng nòng
súng lại, mở khoá an toàn, lấy khoảng cách rồi bóp cò, cũng chỉ
là một tiếng tạch khô khốc. Tôi lấy viên đạn trong súng bỏ ra,
rút viên khác lắp vào, lại đóng nòng súng, mở khoá an toàn, canh
khoảng cách... nhưng tôi không còn thấy mục tiêu đâu nữa. Không
biết nó đã bị bắn chết hay đã di chuyển đi đâu. Tuy nhiên, để
kiểm tra cây súng, tôi nhắm hú họa vào bụi cây có tên vc nấp khi
nãy, bóp cò. Vẫn chỉ là một tiếng tạch. Chán chường, tôi tính
liệng cây súng đi, nhưng chợt nghĩ lại: Không lẽ mình đi tay
không? Nếu phải đánh xáp lá cà thì có cây súng làm binh khí cũng
đỡ hoặc bất chợt gặp tụi vc mà mình chĩa cây súng này ra dọa thì
tụi nó cũng sợ té đái và cái đáng sợ nhất là sau này về đơn vị
trình diện mà báo mất súng lúc đang chiến đấu thì ra toà án binh
chắc cú luôn. Vì vậy, tôi vẫn giữ lại cây súng vô dụng đó.
Bắn nhau với vc chừng 15 phút nữa rồi
chúng tôi bắt đầu rút đi, bởi chúng tôi không biết quân số của
chúng, loại vũ khí mà chúng được trang bị và chúng tôi cũng không
phải là một đơn vị tác chiến như TQLC hay Nhảy Dù, v.v. Hơn nữa,
chúng tôi cần nhanh chóng ra biển cho kịp chuyến tàu. Lúc rút đi,
tôi hơi ngạc nhiên là sao vc không tổ chức đuổi theo chứ tôi
không biết rằng đã có anh em tình nguyện ở lại để ngăn cản sự
truy sát của vc và người đó chính là viên sĩ quan dũng cảm tôi
nhìn thấy đã đi hiên ngang trên đồi, Chuẩn úy Nguyễn Trọng
Vui....
12/11/2016
Việc mất liên lạc với các đơn vị có liên quan đến cuộc hành quân
xâm nhập của chúng tôi và sự trở mặt của cái làng trước đây thuộc
về “quốc gia” ấy, đã làm chúng tôi phần nào cũng hiểu đuợc quân
đội VNCH đã không còn kiểm soát được khu vực Đà Nẵng–Quảng Nam và
vc đang chiếm lĩnh khắp nơi nên chúng tôi hết sức thận trọng khi
di chuyển nhằm tránh bị phát hiện. Tình thế bây giờ hết sức nguy
hiểm. Chúng tôi không thể tin vào bất kỳ ai cho dù chỉ là đứa trẻ
chăn trâu hay những người làm ruộng, đốn củi, v.v. và sẽ trả giá
đắt nếu để cho ai đó nhìn thấy sự hiện diện của mình. Chúng tôi
len lỏi theo những bụi cây mọc trên các ngọn đồi để đi về phía
biển, nơi chúng tôi vẫn cố gắng tin rằng còn những chiếc tàu đang
neo đậu đâu đó ngoài khơi để chờ chúng tôi. Trời bắt đầu đổ mưa.
Những cơn mưa tuy không lớn, không nặng hạt như trong miền Nam,
nhưng nó dai dẳng, dầm dề đến khó chịu. Chúng tôi ướt lướt thướt
và tôi thấy đói bụng, đã gần một ngày đêm rồi còn gì. Nhưng, cũng
như phần lớn anh em, tôi đã bỏ ba lô đựng lương khô dưới ruộng
khi đụng độ với vc. Tôi liếm nước mưa trên môi cho đỡ khát và
cũng hy vọng sẽ đỡ đói phần nào, nhưng vô ích, cái dạ dầy lép kẹp
của tôi như bị đánh thức. Nó cồn cào, thôi thúc, xâu xé tôi mãnh
liệt hơn, nhưng không có gì xung quanh để tôi có thể cho vào
miệng ngoại trừ những chiếc lá xám xịt của những bụi cây mọc
hoang trên đồi. Tôi đi theo anh em trong trạng thái vô thức. Một
lúc sau, tôi chợt tỉnh vì đoàn người đã dừng lại.
Một con đường đất phía dưới đồi cách
chúng tôi chừng trăm mét hiện ra xa tít tầm mắt, nhưng chen chúc
trên đó là lớp lớp cộng sản Bắc Việt đi cặp theo những chiếc
molotova, loại quân xa của Trung cộng viện trợ cho Bắc Việt, kéo
theo sau những khẩu cao xạ, đang ùn ùn tiến về phía mà tôi nghĩ
là thành phố Đà Nẵng. Chúng đông đến mức chỉ có quân số ở các
quân trường mới có thể so sánh được, nghĩa là cả hàng ngàn người.
Chúng đi nghênh ngang, không cần ngụy trang và nói năng ồn ào cứ
như gầm trời này đã thuộc về chúng. Điều này càng củng cố thêm
suy đoán của tôi là cộng sản đã chiếm thêm Đà Nẵng sau Phước
Long, Buôn Mê Thuột và Huế. Chúng tôi nằm như dán xuống mặt đất
và bất động như hoá đá, ngay cả việc hít thở cũng không dám làm
mạnh vì chỉ cần một sơ suất nhỏ để kẻ địch phát hiện ra thì số
phận của toàn bộ 18 anh em chúng tôi gồm 9 người của Đoàn 72 và 9
của TQLC xem như đã an bài. Chúng tôi căng mắt nhìn vào kẻ địch
đang di chuyển bên dưới mà hết sức lo lắng, thầm cầu mong đừng có
ai trong số cả ngàn người kia chột bụng hay buồn tiểu tách khỏi
hàng quân chạy lên đồi giải quyết thì... Nhưng, vị thần may mắn
chưa rời bỏ chúng tôi trong cơn nguy khốn như thế. Chốc lát, trời
tối xuống thật nhanh đã hoà chúng tôi vào màn đêm một cách hoàn
hảo. Chúng tôi lặng lẽ trườn đi, cố gắng không gây ra tiếng động
nhất là không để đất đá trượt xuống phía dưới. Được khoảng khá xa
có thể cho là an toàn, chúng tôi lại đứng lên lom khom mà đi. Cứ
đi được một chút thì dừng lại, ngồi xuống nghe ngóng, quan sát
động tĩnh rồi lại đứng lên lom khom đi tiếp. Lúc này cơn đói tạm
dịu đi thì tôi lại nghe buồn ngủ. Mỗi lần dừng lại thì 2 mắt tôi
như dính lại với nhau làm tôi chỉ muốn nằm lăn ra đất mà ngủ,
nhưng tôi lại sợ mình bị anh em bỏ rơi dù điều này chắc chắn
không bao giờ xảy ra. Đến quá nửa đêm, chúng tôi lọt vào một vườn
dưa leo của ai đó. Mọi người nhanh chóng tìm hái vài trái ăn cho
đở đói. Với sức vóc thanh niên tuổi 18 như tôi mà chỉ bỏ vào
miệng 2 trái dưa lớn hơn ngón tay cái một chút thì thật chẳng
thấm vào đâu. Nhưng anh em đã nhanh chóng lên đường mà tôi thì
không muốn bị bỏ lại. Chúng tôi đi, đi mãi đến gần sáng thì ra
tới một cái nghĩa địa. Tôi nghĩ thầm: “Như vậy là cũng gần một
cái làng nào đó nữa rồi”. Lần này, Thiếu úy Quách Tố Long toán
trưởng của tôi, Chuẩn úy Chung Tử Ngọc toán phó và Thiếu úy Chung
Quang Nhường trung đội trưởng Trung đội 3 TQLC sau khi bàn bạc đã
quyết định cho anh em dừng lại ngủ, nghỉ chờ trời sáng vì các anh
cho biết phải đi qua một cái làng trước khi ra quốc lộ 1 mà như
vậy không thể đi thành đoàn dài mà phải chia nhau thành từng tốp
nhỏ 2,3 người giả như dân đi rừng, đi rẫy và phải bỏ lại toàn bộ
súng ống, đạn được cùng những vật dụng quân trang, quân dụng khác
ở nghĩa trang, để đi qua làng ra quốc lộ 1, sau đó tìm đường ra
biển. Tôi đã quá mệt nên khi nghe lệnh dừng lại ngủ, nghỉ là tôi
vội nằm xuống chìm sâu vào giấc ngủ.
Tôi thức giấc khi những tia nắng đầu
tiên chiếu vào mắt. Tôi đoán chừng mình đã ngủ được khoảng hơn
nửa tiếng đồng hồ. Tôi nhìn quanh tìm đồng đội. Hình như họ không
ngủ hay sao ấy mà đang dùng tay moi đất thành những cái rãnh rồi
cho súng, đạn và đôi giầy xuống, sau đó lấp lại. Tôi cũng làm như
vậy. Thật may, xung quanh ngôi mộ tôi nấp có khá nhiều cát nên
việc dùng tay bới cát của tôi cũng không khó khăn lắm. Sau khi
lấp xong cây M79, đôi giầy và mấy trái lựu đạn, tôi giữ lại một
trái mini và nhét vào lưng quần. Trong tình thế không còn gì để
mất, tôi sẽ hành động như Hậu. Quốc lộ 1 cách chỗ chúng tôi nấp
không xa lắm, vẫn xe cộ ngược xuôi, người qua kẻ lại. Duy chỉ có
điều lạ là trên mui những chiếc xe GMC hay JEEP lại gắn thêm cờ
Phật giáo sặc sỡ như chuẩn bị tham dự một lễ hội nào đó. Chúng
tôi cố đoán nhưng cuối cùng vẫn không hiểu tại sao lại thế. “Chút
nữa thì biết chứ gì!”. Tôi nghĩ vậy. Chúng tôi phân ra từng nhóm
nhỏ 2 hoặc 3 người rời chỗ nấp ở nghĩa trang, đi vào làng. Tôi và
một người lính TQLC nữa đi sau cùng. Tôi tự nhắc mình phải bình
tĩnh chú ý xem chừng những tốp đi trước có bị trở ngại gì không
để có thể hỗ trợ, nhưng quái thật không thấy họ đâu và cũng không
thấy người nào trong làng đi lại. “Chắc đi làm hết rồi” – Tôi
thầm nghĩ vậy. Nhưng đúng lúc tôi cảm thấy nhẹ nhõm thì sau lưng
vang lên tiếng gọi.
– Này! Mấy anh kia đi đâu đấy? Đứng
lại! Có giấy tờ gì đưa ra coi.
Tôi ngoái nhìn ra sau thì thấy 2 thanh
niên mặc đồ dân sự, tay cầm M16 chĩa về mình và đang đi theo sau
lưng chúng tôi. Trong lúc tôi đang phân vân tự hỏi 2 thanh niên
này là nhân dân tự vệ hay là vc thì anh bạn TQLC bỏ chạy làm tôi
cũng co giò phóng theo. Sau lưng, tiếng la: “Đứng lại! Đứng
lại!”... đuổi theo rồi tôi nghe tiếng lên đạn và 2 tiếng súng nổ
vang, nhưng tôi vẫn cắm đầu chạy. Tôi chạy nhanh hết mức có thể,
lồng ngực tôi như muốn vỡ ra, nhưng tôi cũng biết rằng mình không
thể nhanh hơn viên đạn, tuy vậy tôi vẫn chạy. Khi chỉ còn cách
quốc lộ 1 chừng vài mươi mét thì trước mắt tôi 3 người đàn ông
cầm súng M16 có, AK cũng có, xông ra chận tôi lại. Lố nhố sau
lưng những người này là một số anh em đi trước. Thì ra, chúng bố
trí chốt gác ở đầu làng để chận xét bất cứ ai lạ mặt ra vào làng.
2 tên khi nãy mà giờ tôi biết chắc chắn là du kích có nhiệm vụ đi
tuần tra quanh làng đã không thèm đuổi theo chúng tôi mà chỉ cần
nổ súng báo cho tụi ở chốt gác đầu làng ra chận lại là xong.
Trong lúc tụi nó đang hỏi mấy người khác thì tôi dùng ngón chân
cái xoay xoay trên đất để moi một cái lỗ rồi kéo lưng quần ra cho
trái lựu đạn mini rớt xuống, xong tôi dùng chân lùa cát lấp lên
trước khi bọn chúng xét hỏi tới mình. Kiểm tra xong, chúng đưa
chúng tôi vào một căn phòng mà tôi nghĩ là nhà kho vì nó chẳng có
đồ đạc gì bên trong. Đầy đủ 18 người không thiếu một ai. Chúng
tôi ngồi một lát thì có vài người, trong đó có một cán bộ cộng
sản Bắc Việt với quân phục thùng thình, bước vào. Chúng vừa ghi
chép vừa hỏi từng người chúng tôi về đơn vị, cấp bậc, chức vụ,
v.v. xong rồi hỏi chúng tôi có ăn uống gì chưa? Khi biết chúng
tôi chưa ăn gì, tên cán bộ cộng sản Bắc Việt kêu những người
trong làng nấu cơm cho chúng tôi ăn liền, rồi sau đó bỏ ra ngoài.
Chúng tôi ngồi suy nghĩ mông lung một lát thì lại có thêm một
người bị bắt đưa vào phòng. Người này mặc quần áo dân sự rất
chỉnh tề, tay mang theo một cái va–ly trông như nhà doanh nghiệp
hơn là một quân nhân. Nhưng, qua trao đổi với nhau chúng tôi mới
biết ông là một sĩ quan cấp tá đang tìm đường vào Sài Gòn và cũng
như chúng tôi, ông không có giấy tờ gì khi qua chốt gác của vc.
Chừng non một tiếng sau, vài người dân trong làng, lần này có cả
phụ nữ, mang cháo và thịt heo kho vào cho chúng tôi. Họ nói chúng
tôi ăn tạm cháo vì đã bị đói mấy ngày, nếu ăn cơm bây giờ sẽ
không tốt. Thấy họ đối xử cũng không có thái độ thù địch lắm nên
chúng tôi tạm yên tâm. Nhưng, sự yên ổn ấy không kéo dài được lâu
vì vào khoảng 8 giờ tối, mấy tên bộ đội Bắc Việt với đầy đủ súng
ống xuất hiện dẫn người sĩ quan cấp tá mặc thường phục đi với lý
do đưa ra ông ấy là ngụy quyền gì đó nên cần tách riêng. Chúng
tôi ở lại với ngổn ngang những cảm xúc, vừa lo cho ông ấy không
biết bị đưa đi điều tra để moi thêm tin tức hay bị xử bắn không
chừng? Nhưng, dù thế nào thì số phận của ông ấy cũng lành ít dữ
nhiều. Chúng tôi cũng hết sức lo lắng cho tính mạng của anh em
mình vì binh chủng của chúng tôi cũng thuộc vào loại “đầy nợ máu
với nhân dân” theo cách nói của cộng sản mà thực ra phải gọi là
chỉ với bọn xâm lược phương Bắc thì đúng hơn. “Không biết khi nào
đến lượt mình ra đồng đây?” Tôi luôn trăn trở với suy nghĩ như
trên nên cả đêm hầu như không ngủ được. Mấy anh em khác chắc cũng
vậy vì tôi nghe thi thoảng trong đêm văng vẳng tiếng thở dài.
Nhưng, chúng tôi đã quá lo xa vì đêm đó không có điều gì xảy ra
với chúng tôi cả.
Sáng hôm sau, tên cán bộ cộng sản Bắc
Việt cùng vài người trong làng đến chỗ chúng tôi ngủ, y nói một
thôi, một hồi về cái gọi là căn cứ vào chính sách nhân đạo gì gì
đó của chính quyền cách mạng đối với tù, hàng binh nên quyết định
thả chúng tôi đi. Tạm mừng vì duy trì được mạng sống, nhưng ruột
gan chúng tôi cũng rối như mớ bòng bong vì chúng tôi biết đi về
đâu khi đơn vị không còn nữa? 18 anh em chúng tôi đều từ miền Nam
ra, không có thân thích gì ở cái nơi xa lắc, xa lơ này thì việc
ăn ở phải nói là vấn đề nan giải. Chúng tôi đi một cách vô vọng
về hướng Đà Nẵng, không ai nói với ai tiếng nào. Hình như chúng
tôi sợ phải nói ra sự thật đang đè nặng lên tâm tư mỗi người. Dọc
đường, chúng tôi thấy vô số quần áo, vật dụng của các quân binh
chủng vất ngổn ngang và dân chạy giặc tay xách, nách mang lũ lượt
kéo đi như trẩy hội, người đi vào lại có kẻ đi ra không biết đâu
mà lần...
12/12/2016
Trên đường đi về phía thành phố Đà Nẵng, chúng tôi nhiều lần bắt
gặp hình ảnh những vị sư ngồi chễm chệ trên những chiếc xe JEEP
quân sự của VNCH, nhưng lại do cán binh cộng sản lái chạy tới,
chạy lui. Trước khi gia nhập quân đội, tôi là một Phật tử thuần
thành thường xuyên đi chùa, lễ Phật và là thành viên ban hộ niệm
của niệm phật đường Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, nhưng khi nhìn thấy những
hình ảnh trên, niềm tin tôn giáo của tôi bị vỡ vụn hoàn toàn. Tôi
cũng được nghe nhiều người nói có những kẻ xin đi tu để trốn quân
dịch hoặc cộng sản nằm vùng đội lốt các nhà tu, v.v. nhưng lúc ấy
tôi chỉ nghĩ: “Tai nghe không bằng mắt thấy” và hôm nay tôi đã
được tận mục sở thị rành rành. Chúng tôi tìm đến chùa tỉnh hội
thành phố Đà Nẵng vì chỉ có nơi đây mới dung chứa thập phương bá
tánh mà không đòi hỏi điều kiện gì. Trước sân chùa, một đống cao
bằng nóc nhà súng ống đủ loại và cơ man là người, cả dân chạy
giặc và lính các binh chủng. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được
chỗ cho 18 anh em nằm nghỉ. Khi đã yên vị, tôi nghe đói bụng nên
tìm xuống bếp nhà chùa để kiếm thức gì đó bỏ bụng, nhưng đã có
hàng đống người xếp hàng dài chờ đợi trước đó rồi, chẳng có cách
nào khác tôi cũng phải xếp hàng theo. Nhìn những người vừa lãnh
phần ăn xong quay ra, tôi nhìn trên tay họ chỉ có chén cháo lỏng
nấu với ít cà rốt băm nhuyễn. Dù rất thất vọng nhưng biết sao
được khi số lượng người quá đông so với khả năng cung cấp của nhà
chùa. Cũng phải mất 15 phút xếp hàng, tôi mới được phát cho một
chén cháo, chẳng bõ bèn gì so với một thằng thanh niên 18 tuổi,
cao 175cm và nặng 60kg đang tuổi ăn, tuổi lớn như tôi. Tôi tính
ăn xong chén cháo sẽ quay lại vài lần đến khi no bụng thì thôi,
nhưng nhìn hàng người xếp hàng dài dằng dặc đến vài chục mét thế
kia, tôi bỏ luôn ý định đó. Trong thời gian lưu lại chùa, chúng
tôi nghe những nguồn tin do người dân loan truyền là cộng sản đã
chiếm được chỗ này, chỗ khác và chúng tiến đến đâu lính quốc gia
lại buông súng đầu hàng đến đó. Không biết những người khác nghĩ
sao chứ cá nhân tôi rất thất vọng khi nghe những tin tức như thế.
Tôi tự nguyện gia nhập quân đội khi mới 17 tuổi sau khi xem một
phim tài liệu về cuộc pháo kích của vc vào một trường học ở Cai
Lậy giết chết nhiều trẻ em. Tôi đã nằng nặc xin nghỉ học để đăng
lính dù mẹ tôi khóc hết nước mắt năn nỉ tôi hoãn lại ý định nhập
ngũ mà chờ ba tôi về – lúc đó, ba tôi cùng đơn vị Đại Đội 2 Trinh
sát thuộc Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, đang đóng quân ở Non Nước Đà Nẵng,
nhưng tôi là loại người không dễ dàng từ bỏ mục đích của mình.
Thế là tôi lên đường với hành trang mang theo là một trái tim tan
nát của mẹ mình (cầu xin mẹ ở trên cao tha thứ cho sự nông nổi,
bồng bột của con lúc trẻ). Nhưng, tôi lại nghe cộng sản sẽ lùa
dân và nhất là lính quốc gia đi đầu làm bia đỡ đạn trong trường
hợp quân đội VNCH phản công để chận đà tiến của chúng. Nói chung,
là dù thế này hay thế kia thì những tin tức ấy không lấy gì làm
vui vẻ.
12/13/2016
Và,
như để xác chứng cho việc thất thủ của quân đội VNCH, số người đổ
vào chùa tỉnh hội mỗi lúc một đông hơn làm không gian xung quanh
càng trở nên chật chội, ồn náo, nhếch nhác hơn. “Không thể ở lại
đây được nữa rồi vì cứ đà này kéo dài thì sẽ đến lúc nào đó nhà
chùa cũng sẽ hết lương thực, lúc đó tai họa sẽ ập đến khi hàng
ngàn con người bị đói sẽ sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì để có cái
ăn”. Kinh hoàng trước suy nghĩ đó, tôi nhìn quanh như tìm người
chia sẻ thì bắt gặp ánh mắt của người lính TQLC cùng nhóm với
chúng tôi ở Đồng Đen xuống, đang nhìn mình. Chúng tôi trạc tuổi
nhau nên cũng dễ hoà đồng. Anh ta hỏi tôi:
– Ông đói bụng hôn?
Tôi gật đầu. Anh ta hạ thấp giọng
xuống:
– Tui
với ông ra chợ kiếm gì ăn đi.
– Tui không có tiền.
– Tui có. Nhưng tui nghe lính mấy ông
đi lãnh tiền tử trước mà.
Không biết giải thích thế nào, tôi nổ
luôn:
– Ừ!
Nhưng tụi mình không đem theo làm gì, trong rừng cũng có xài gì
được đâu, với lại tụi tui đi chỉ có 10 ngày là thay toán khác
rồi, đem theo chỉ nặng thêm.
– Vậy thì ông đi với tui.
Thế là 2 đứa chúng tôi lẳng lặng đi ra
khỏi chùa tìm đường vào chợ. Trên đường đi, anh chàng TQLC không
vào các hàng quán ăn mà tìm mua 1 trái tim heo tươi, 1 miếng gan
và 3 ổ bánh mì. Thấy vậy tôi hỏi:
– Ông mua thứ này rồi làm sao nấu?
Trong chùa đâu có cho đem đồ mặn vô.
– Thì mình ra ngoài nhà dân mượn nồi
nấu chứ đâu đem vô chùa. Tui thèm món này quá. Ăn cho bổ tim.
Nói xong, anh ta cười cười ra vẻ hài
lòng khi thỏa mãn ước muốn hết sức bé nhỏ, bình dân của mình. Sau
khi 2 đứa ăn xong, anh ta rủ tôi đi về Sài Gòn vì anh ta cũng có
suy nghĩ giống như tôi là không thể ở lại chùa được nữa.
– Cũng được, nhưng để hỏi mấy ông kia
đã, có gì rủ mấy ổng đi luôn.
Nhưng, anh ta khoát tay, nói:
– Mấy ổng giờ cũng không biết giải
quyết thế nào đâu. Nếu mấy ổng không chịu đi thì sao? Ở lại nữa
hả? Với lại, đi một đám đông quá sẽ rất khó khi dọc đường ghé nhà
dân xin ăn lắm.
Với lập luận này, anh chàng TQLC đã
thuyết phục được tôi hoàn toàn. Thế là 2 đứa tôi lên đường theo
quốc lộ 1 trực chỉ Sài Gòn, không kịp từ biệt những đồng đội còn
nán lại. Tôi đã không biết được rằng đó là cuộc chia ly kéo dài
đằng đẵng mà những 41 năm sau, tôi mới có dịp gặp lại những chiến
hữu của đơn vị xưa – Đoàn 72 Hắc Long/Sở công tác/Nha kỹ thuật.
Dọc đường, chúng tôi thấy họa hoằn lắm
mới có trường hợp người dân còn ở lại nhà mà phần lớn trong số họ
đã bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn để lo chạy giặc. Từng tốp người
gồng gánh lỉnh kỉnh hoặc chất đồ đạc lên xe đạp đẩy đi. Những tốp
lính hay đã từng là lính thì đúng hơn, người thì còn mặc nguyên
bộ quân phục, nhưng đã xé phù hiệu, người thì lộn trái áo lại,
người mặc áo thun, người lại ở trần... bước xăng xái trên đường,
họ cười nói râm ran như vui mừng vì chiến tranh đã lùi xa, không
còn sợ chết trẻ hoặc bị tàn phế vì thương tật nữa. Lại có những
phần tử mà tôi biết là vừa được thoát khỏi nhà tù cũng rảo bước
trên đường, thật sự mà nói tôi không tin tưởng những người này
lắm. Ai mà biết được họ sẽ hành động thế nào nếu gặp một người
phụ nữ ưa nhìn hoặc một vật gì đó mà họ thích? Bây giờ là giai
đoạn tranh tối, tranh sáng, hay nói cách khác là giai đoạn vô
chính phủ, ai muốn làm gì thì làm mà không sợ bị luật pháp chế
tài.
Trên
đường xuôi Nam, chúng tôi nhiều lần ghé vào những ngôi nhà vắng
chủ để tìm thức ăn còn sót lại và cũng để kiếm cho mình bộ quần
áo dân sự thay cho bộ đồ lính. Nhưng, có thể chủ nhà đã mang đi
hết hoặc những người đi trước đã vét sạch những gì còn lại nên
mãi rất lâu chúng tôi mới đổi được bộ quần áo trên người. Anh
chàng TQLC thì may mắn hơn tôi vì tầm vóc của anh ta chừng hơn
1.6m khá phổ biến với người Việt Nam, nên bộ quần áo anh ta tìm
được khá vừa vặn với khổ người. Riêng tôi thì “đen” hơn khi chỉ
kiếm được một cái quần dài quá đầu gối một chút và cái áo rộng
thùng thình đã có vài miếng vá. Chúng tôi cũng tìm được duy nhất
một đôi dép mỏng đến mức không thể mỏng hơn, thế là chúng tôi
luân phiên nhau mang cho đỡ nóng và rát chân khi đi trên đường
nhựa.
Những
chiếc cầu nằm dọc theo quốc lộ 1 từ Quảng Nam đến Quảng Tín đã bị
lính VNCH đánh sập để làm chậm bước tiến của cộng sản. Chúng tôi
phải leo qua để sang bên kia bờ nhằm tiếp tục cuộc hành trình.
May là những con sông ở miền Trung không rộng nên việc đi chuyển
cũng không đòi hỏi nhiều công sức. Chúng tôi đi mãi đến khi gặp
được ngôi nhà nào có người ở thì vào xin cơm ăn. Những người dân
miền Trung, theo tôi được biết qua những câu hát, bài vè như: đất
cày lên sỏi đá, chó ăn đá gà ăn muối, mùa đông thiếu áo hè về
thiếu ăn, v.v. lại khá hào phóng khi chia sẻ cho chúng tôi những
bữa ăn chỉ có cơm độn khoai với mắm cái của họ. Có lẽ chúng tôi
may mắn vào lúc họ vừa dùng cơm xong nên mới có cái mà ăn, chứ
người đi trên đường nhiều không đếm xuể, không ai có thể đủ sức
giúp đỡ mọi người. Sau khi ăn xong, chúng tôi lại tiếp tục đi, đi
mãi đến quá nửa đêm thì 2 chân tôi đau nhức vô cùng không thể nào
lê bước được nữa. Chúng tôi vào một ngôi nhà vắng chủ để nghỉ,
ngủ cho lại sức nhằm sẽ tiếp tục cuộc hành trình vào ngày mai.
Nhưng đêm đó, đôi chân tôi nó nhức buốt đến mức tôi không thể
thẳng ra hay co lại được. Tôi nằm lăn hết bên này qua bên kia cho
đỡ nhức mà nghe ngoài đường người ta vẫn đi lại nhộn nhịp. Rồi
tôi cũng ru mình vào giấc ngủ chập chờn, mãi đến khi mặt trời đã
lên cao mới gượng ngồi dậy được. Ngán ngẫm khi nghĩ tới con đường
về Sài Gòn dài thăm thẳm, trong khi đôi chân như muốn rớt ra
ngoài, nhưng nếu không cố gắng đi thì không biết bao giờ mới về
nhà, về đơn vị nên tôi rủ anh bạn TQLC tiếp tục lên đường. Nhưng,
lần này anh ta lắc đầu nói không muốn đi nữa. Tôi hỏi tại sao thì
anh chỉ trả lời ngắn gọn:
– Ông đi trước đi, tui sẽ đi sau.
Tôi ngần ngừ cũng muốn ở lại nghỉ cho
khỏe hẳn đôi chân rồi đi cũng không muộn, nhưng thấy anh bạn TQLC
có vẻ muốn giấu điều gì đó nên tôi từ biệt anh rồi tiếp tục lên
đường dù chỉ một mình. Lần này, có thể không có bạn đồng hành và
đôi chân rất đau nhức nên tốc độ đi của tôi giảm nhiều so với hôm
qua, dù vậy tôi vẫn cố gắng đi, đến trưa thì tới một nơi gọi là
Châu–Ổ thuộc tỉnh Quảng Ngãi....
12/15/2016
2 thân cây dài được bắc ngang qua quốc
lộ 1 làm thành một cái chốt chận để kiểm tra tất cả những người
qua lại. Cũng giống như ở cái làng Hoà Vang, Hoà Cầm gì đó, tôi
cùng rất đông người khác không thể đi qua được cái chốt này vì
không có giấy tờ gì cả. Chúng tôi bị lùa vào một cái trường tạm
thời ngưng việc dạy học để dùng làm nơi tập trung số tàn quân. Có
mấy trăm người tuổi từ 18 đến ngoài 40 đã được giữ lại đây trước
khi tôi vào. Họ đứng ngồi lộn xộn và xầm xì to nhỏ về đơn vị, về
hoàn cảnh của nhau. Trên gương mặt mọi người đều hiện rõ sự mệt
mỏi, chán chường và lo âu. Tôi cũng tìm một chỗ rồi ngồi bệt
xuống nghỉ chân. Tôi đưa mắt nhìn quanh xem có ai là người quen
không? Những đồng đội cùng đơn vị chắc chắn là không rồi, nhưng
những đứa bạn cùng trại gia binh Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, hoặc mấy đứa
bạn cùng Đại đội 847 lúc thụ huấn tại Đồng Đế ra trường rồi đóng
quân ngoài miền Trung này cũng có mấy mống, nhưng tôi không thấy
ai trong số họ. Tôi vừa thất vọng lại vừa mừng và mong là bọn nó
đừng bị rơi vào hoàn cảnh bi đát như tôi.
Đến trưa, một gã cán binh cộng sản được
hộ tống bởi mấy tên du kích cầm súng AK47 đến kêu mọi người im
lặng để nghe phổ biến vài vấn đề. Gã cũng huyên thuyên về cái gọi
là giặc Mỹ xâm lược, về bọn tay sai ngụy quân, ngụy quyền, về
cách mạng, về giải phóng gì gì đó mà không biết có ai thèm lắng
nghe không? Sau đó, gã nhấn mạnh là chúng tôi sẽ được đưa đi học
tập cải tạo để thấm nhuần đường lối, chủ trương của đảng và đợt
học tập như thế chỉ có 2–3 ngày, sau đó sẽ có xe đưa chúng tôi về
tận nhà. Cuối cùng gã nói chúng tôi sẽ được phát gạo để nấu cơm
ăn và nên nấu cơm nhiều để mang theo trên đường đi đến nơi học
tập cải tạo. Nghe xong tôi đã thoáng nghi ngờ: “Đang còn chiến
tranh làm sao đưa về nhà được và nếu chỉ học tập vài ngày thì tổ
chức ở đây cũng được chứ sao lại phải đưa đi đâu nữa?”. Đó là nỗi
hoài nghi đầu tiên của tôi trong quá trình khám phá và nhận chân
được cái bản chất của cộng sản, đó là: Dối trá, đê tiện và tàn
bạo. Có lác đác vài tiếng vỗ tay mang tính xã giao khi gã cán
binh kia chấm dứt bài nói chuyện. Sau đó, chúng tôi được phát mỗi
người 3–4 lon gạo gì đó đựng trong những cái bao thường được quân
đội dùng đựng đất, cát để làm công sự chiến đấu. Chúng tôi phải
tự nấu cơm sau khi được chúng đưa cho mấy cái chảo lớn và một xô
mắm cái (loại mắm làm từ một loại cá biển cỡ 1–2 ngón tay rất phổ
biến ở miền Trung, thoạt nhìn cũng giống như mắm sặc miền Nam,
nhưng độ mặn thì... kinh khủng khiếp). Một lúc sau nữa, tên cán
binh quay lại hỏi trong chúng tôi có ai làm cảnh sát, an ninh,
mật thám gì đó thì đứng ra đi theo hắn. Có vài người gượng gạo
tách ra theo tên cán binh. Cũng giống trường hợp ông sĩ quan cấp
tá mặc thường phục ở gần ngã 3 Huế, tôi nghĩ sự sống của những
người này như chỉ mành treo chuông. Đến khoảng xế chiều, chúng
kêu chúng tôi sắp thành 2 hàng dọc rồi đưa đi.
Cách khoảng 10m thì có một thằng dân
tộc thiểu số mang AK47 đi phía ngoài canh chừng. Chúng dẫn chúng
tôi đi về hướng rừng núi Trường Sơn trùng điệp và tôi biết rằng
đây sẽ là một chuyến đi khó có ngày về chứ không phải chỉ có 2–3
ngày như chúng đã nói lúc trưa. Khi đi ngang qua một miếng vườn
nọ, một anh nông dân cũng khoảng gần 40 tuổi, chống cuốc đứng
nhìn chúng tôi đi ngang qua và nói với theo: “Trước tụi bây ngon
lắm mà, giờ sao không giỏi vào bắt gà, bắt vịt nữa đi?” Nghe vậy,
một anh trong hàng lên tiếng: “Bộ ông già bị mất cái gì hả? Ai
bắt gì thì ông già nói thẳng với người đó chứ ông già nói lung
tung đụng chạm nghe”. Lập tức, thằng thượng cộng đi nhanh tới anh
chàng vừa nói câu đó, trở báng súng AK đập cho anh ta vài phát
liền. Từ lúc đó, chúng tôi chỉ biết câm lặng đi theo. Đến sẩm
tối, chúng cho chúng tôi nghỉ chân ven một cái làng nào đó. Vài
người trong làng ra chửi chúng tôi, đúng hơn là chửi lính Mỹ tàn
ác đã gây ra vụ thảm sát Mỹ Lai gì đó mà lính quốc gia là bọn
rước voi về giày mả tổ, v.v. Nghe vậy, ý nghĩ lợi dụng đêm tối bỏ
trốn của tôi tan biến hoàn toàn. Lý do thứ nhất là tôi không biết
mình đang ở đâu? Kế đến, mấy nơi chúng tôi vừa đi qua có vẻ thù
địch với VNCH mà điều này là bất lợi vô cùng vì nếu không được sự
giúp đỡ của người dân, tôi không thể trốn thoát được và sau hết,
tôi không biết từ đây về Sài Gòn sẽ còn bao nhiêu chốt chận như ở
Châu–Ổ này nữa! Chừng nửa giờ sau, chúng tôi lại lên đường. Dù
trời khá tối, nhưng vẫn thấy được đường đi. Tôi đoán là mình được
đưa lên núi vì mặt đất cứ cao dần lên. Khoảng nửa đêm, đến một
nơi có địa hình tương đối bằng phẳng, chúng tôi được dừng lại để
ngủ. Những ai mang theo ba–lô thì tương đối có được những vật
dụng cần thiết để bảo vệ bản thân trước sự khắc nghiệt của thời
tiết miền Trung. Riêng tôi thì chỉ có được mỗi tấm áo phong phanh
tìm được trên đường đi, không đủ để chống lại cái lạnh như cắt
da, cắt thịt của đêm vùng cao nên tôi chỉ còn biết ngồi bó gối mà
run lập cập. Sau, có ai đó gom những nhánh cây khô đốt lên để
sưởi. Nhiều người thấy vậy cũng nhặt nhạnh thêm, mỗi người vài
nhánh chất vào làm thành đống lửa lớn cho nhiều người cùng sưởi.
Hoá ra không phải chỉ có mỗi mình tôi bị lạnh. Nhưng, cái lạnh
miền Trung thật đáng sợ đến nỗi sưởi phía nào thì phía đó ấm còn
những nơi khác vẫn thấy lạnh. Thế là tôi lại loay hoay xoay tròn
để giữ cơ thể không bị lạnh. Rồi tôi cũng thiếp đi vì quá mệt
mỏi.
Sáng hôm
sau, chúng tôi lại lên đường và tôi không còn hoài nghi nữa mà
chắc chắn là mình đang đi ngược lên núi. Qua bao đèo cao, vực
sâu, chúng tôi đến trước một cái trại dựng cạnh một con suối. Gọi
là trại cho sang chứ thật ra chỉ là những dãy nhà tranh, xung
quanh là lớp hàng rào ngăn cách được dựng sơ sài bằng mấy cây
rừng. Bên trong thấp thoáng những người mà tôi biết họ cũng là tù
binh như chúng tôi, đang lui cui làm gì đó mà vì ở xa nên tôi
không thấy rõ. Lúc mấy tên cán binh cộng sản vào trại để nói
chuyện về việc có tiếp nhận chúng tôi vào trại không thì bên
ngoài suối, chúng tôi tranh thủ uống nước, rửa ráy tay chân. Nước
mát lạnh làm chúng tôi thấy khỏe lên đôi chút. Lát sau, mấy tên
cán binh quay ra kêu chúng tôi đi tiếp vào sâu hơn vì trong trại
đã chứa hàng ngàn người rồi nên không thể nhận thêm nữa. Chúng
tôi lại lên đường và đã đi qua vài cái trại tù binh như thế. Cuối
cùng, khi đến một con suối khác, tên cán binh có chức vụ cao nhất
– sau này là giám đốc trại tù binh F7D của chúng tôi, ra lệnh
dừng lại lập trại mới. Chúng tôi được chia thành từng tổ 10
người, có tổ trưởng, tổ phó để nhận và phổ biến công việc từng
ngày cho anh em. Công việc đầu tiên là mỗi tổ được phát 2 cái rựa
và 2 cây cuốc và phải bắt tay ngay vào việc chặt cây, cắt và đánh
tranh để dựng trại. Trước giờ tôi chỉ đi học rồi hứng chí lên
tình nguyện nhập ngũ luôn nên mấy công việc nhà nông này tôi hoàn
toàn mù tịt. Với lại, sống ở Sài Gòn thì đào đâu ra mấy cái việc
này mà thật ra tôi không hứng thú với việc trở thành một anh nông
dân lắm. Nhưng không lẽ anh em làm mà mình không động tay, động
chân gì thì cũng khó coi nên tôi lò mò đến chỗ để mấy cái chảo,
nơi có vài anh đang hì hục đào lấy đất đắp thành bếp để nấu ăn
cho cả trại. Khi mấy anh này nghỉ tay thì tôi cầm lấy dụng cụ rồi
xăng xái đào, đắp loạn xị lên. Với sức vóc to cao, làm việc xốc
vác, tôi nhanh chóng chiếm được cảm tình của mấy anh em tổ “anh
nuôi” này, nhất là anh tổ trưởng tên Thạch, người Quảng Ngãi, là
người lớn tuổi nhất trong tổ và tổ phó Kông–Sao–Phông, người Hoa
ở Chợ Lớn. Lúc này, tổ “anh nuôi” kể cả tôi là được 6 người,
chúng tôi chia làm 2 tốp, tốp thì vẫn tiếp tục đào đất đắp bếp và
làm chỗ ngủ cho anh em, tốp thì lo lãnh gạo nấu cơm. Cả trại có
gần 800 người, mỗi người được 1 lon gạo. Cơm nấu xong, chúng tôi
xúc đổ ra một tấm nylon lớn được trải dưới đất rồi múc ra mỗi
phần 3 chén vắt thành cục để xếp thành hàng dài. Tổ trưởng và tổ
phó sẽ đến nhận cơm cho tổ của mình. Thức ăn thì chỉ có một ký
mắm cái với một ký muối hột và một xô nước múc từ suối lên nấu
chung để làm thành một thứ nước chấm bỏ trong cái thau nhôm, ai
muốn lấy bao nhiêu tuỳ ý.
Ngày hôm đó, trại chúng tôi cũng cất
được hai cái lán dài với 2 hàng giường ngủ được làm bằng tre đập
dập trông cũng tươm tất ra phết, đủ để cho gần 800 người có chỗ
ngủ. Tuy nhiên, phần mái thì còn dở dang, nhưng có vẫn hơn là nằm
dưới đất làm mồi cho bọn côn trùng, nhất là bọn vắt gớm ghiếc.
Xong việc ở tổ “anh nuôi” tôi quay về tổ của mình, nhưng tôi
không nhớ được những ai và người nào là tổ trưởng nên tôi trở lại
tổ “anh nuôi” để ngủ. Anh tổ trưởng Thạch hứa sẽ xin nhận tôi vào
tổ “anh nuôi”. Đêm đó, chúng tôi cho những khúc gỗ lớn vào bếp để
nấu nước uống chứ không cho mọi người uống nước sống nữa và cũng
để giữ lửa cho buổi nấu cơm kế tiếp. Vì vậy, trong bếp lúc nào
cũng ấm áp và ít muỗi hơn bên ngoài và cũng nhờ vậy, tôi không
còn bị lạnh nữa, giấc ngủ cũng ít trằn trọc hơn.
Vài ngày sau, khi việc cất trại đã
tương đối hoàn chỉnh, gã giám đốc trại – đó là một người có tầm
vóc thấp bé, gương mặt xương xẩu, khắc khổ và đặc biệt là khi nói
hoặc cười, 2 hàm răng vẫn cắn chặt vào nhau. Dân gian thường nói
rằng những loại người như thế rất hiểm ác và thực tế diễn ra sau
này đã chứng minh những nhận xét trên là chính xác – đã tập hợp
chúng tôi lại để phổ biến 2 nội dung: thứ nhất là chúng tôi có
vàng bạc, tư trang, tài sản gì có giá trị thì đưa cho Ban giám
đốc trại cất giữ hộ để ngừa tình trạng trộm cắp của nhau. Gã cam
đoan sẽ làm biên nhận, trong đó ghi cụ thể từng món đồ và tên
người gửi để sau này ra trại nhận lại. Tôi thuộc thành phần... vô
sản nên không có gì để gửi mà phải suy nghĩ. Thứ hai là chúng tôi
phải viết bản kê khai, trong đó ghi rõ tên, tuổi, đơn vị, cấp
bậc, chức vụ và nhất là những thành tích đã đạt được trong thời
gian tại ngũ như nhận được những huân, huy chương gì, trong
trường hợp nào, v.v. Gã nhấn mạnh nếu chúng tôi khai báo trung
thực sẽ ưu tiên xét cho được phóng thích sớm. Tôi không tin miệng
lưỡi bọn cộng sản vì mới vài ngày trước tại trường học ở Châu–Ổ,
chúng đã lừa chúng tôi là đi học tập cải tạo chỉ có 2–3 ngày,
nhưng bây giờ đã gần tuần lễ trôi qua rồi. Sau đó, chúng phát cho
chúng tôi mỗi người một tờ giấy để kê khai. Tôi viết rất đơn giản
vì thực sự, tôi mới từ quân trường ra và đây là chuyến hành quân
xâm nhập đầu tiên của tôi nên chẳng có gì để viết. Ban đầu tôi
tính ghi đại mình là lính trong một đơn vị bộ binh nào đó, nhưng
tôi không biết những đơn vị bộ binh nào đóng quân ngoài miền
Trung này, ghi lung tung không đúng có khi lại rước họa vào thân,
thế là mình như thế nào thì ghi như thế ấy cho xong. Và có một sự
may mắn là không một ai biết danh xưng Nha Kỹ Thuật mà tôi viết
trong bản khai là loại lính gì. Nhiều người có thể nghe và kể
vanh vách về biệt kích, về Lôi Hổ, về bóng ma biên giới với sự nể
phục mà không hề biết gì về Nha Kỹ Thuật. Họ nghĩ tôi chỉ là lính
sửa chữa, lắp ráp máy móc gì đó. Thế càng tốt. Tôi thầm cám ơn vị
chỉ huy nào đó đã nghĩ ra và đặt cho lực lượng một cái tên hết
sức dễ thương đến vậy.
Ít ngày sau khi chúng tôi nộp bản tự
khai, gã giám đốc lại tổ chức họp để thông báo kết quả, qua đó gã
hết sức khen ngợi một anh Biệt Động quân trong trại, đã trung
thực khai báo việc bắn cháy một chiếc T54, được thưởng 100 ngàn
đồng cùng 15 ngày phép. Anh này sẽ được cứu xét cho về nhà sớm.
Gã kêu anh ra trình diện cho mọi người biết mặt. Đó là một anh
chàng khoảng ngoài 20 tuổi, cao khoảng 1.7m, khá đẹp trai dù trải
qua nhiều cực nhọc của đời tù binh vẫn toát lên nét hào hoa, tài
tử. (Đúng là chỉ vài ngày sau, anh ta được thoát khỏi kiếp tù
binh, nhưng không phải bằng giấy phóng thích mà bằng 2 viên đạn
vào người với lý do nửa đêm lén ra rẫy trộm khoai mì của đồng bào
dân tộc bị phát hiện, bắn chết. Đó là cái chết đầu tiên của trại
F7D). Cũng qua bản tự khai, gã cho biết có ý nghi ngờ nhiều người
đã gian dối khi đi lính cầm súng chiến đấu đã lâu mà không có
thành tích gì, không tham gia trận đánh nào và cũng không bắn
được tên vc nào mà chỉ là binh nhất, binh nhì... là phi lý. Gã sẽ
cho viết lại bản tự khai và ai khai không khớp với bản đầu tiên,
chứng tỏ người đó khai man sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.
Sát cạnh hàng rào trại tù binh của
chúng tôi là khu vực sinh hoạt riêng của khoảng một tiểu đội cộng
sản có nhiệm vụ canh giữ chúng tôi, trong đó có 2 con “bộ đội
cái” và hơn phân nửa trong số đó là thượng cộng. Chúng nấu nướng,
ăn uống, ngủ nghỉ riêng và ngoại trừ tên giám đốc và tên chính
trị viên thi thoảng bước qua hàng rào để thông báo gì đó, còn lại
thì cứ im lặng như thóc và không hề có ý định muốn tiếp xúc với
chúng tôi. Ngược lại, khi chúng tôi muốn ra ngoài hàng rào để làm
gì đó, ngang qua chốt gác của chúng, anh em tù binh phải xin phép
bọn gác và chỉ được đứng từ xa, hô lớn: “Báo cáo cán bộ, xin cho
tôi được....” khi nào thằng gác đồng ý mới được đi ra ngoài.
Không thể không nói đến một việc nữa
cũng làm tổn hại đến sức khỏe của anh em tù binh rất nhiều, đó là
vấn đề bài tiết. Chúng tôi phải đào một cái hố sâu khoảng 3m,
ngang chừng 4m, rồi bắc 2–3 cây gỗ ngang qua để làm chỗ ngồi.
Thời gian đầu thì không có gì đáng nói, nhưng về sau khi phân
nhiều lên phát sinh hôi thối và ruồi nhặng vô số, chỉ đến gần
thôi đã muốn ngạt thở và rùng mình khi thấy đám ruồi nhặng bay
đen kịt kêu vù vù và cứ bu vào người ngồi trên, còn phía dưới thì
dòi bọ lúc nhúc và hơi nóng bốc lên hừng hực cay xé mắt. Sau, có
số anh em không chịu nỗi bầu không khí nơi xú uế này nên xin ra
suối để giải quyết, nhưng tên chính trị viên nghiêm khắc không
cho với lý do con suối này được nhiều buôn làng đồng bào dân tộc
và các trại tù binh khác phía dưới sử dụng nấu nướng, ăn uống,
tắm giặt... nên phải giữ vệ sinh chung, nếu bài tiết ngoài suối
là gây ô nhiễm, có thể lây truyền dịch bệnh cho mọi người và ai
cố tình vi phạm sẽ bị xử lý với tội danh đầu độc cộng đồng. Vì
vậy, dù rất sợ mỗi khi đi vệ sinh, nhưng cái tội danh kia còn
đáng sợ hơn bội phần nên anh em chỉ biết nghiến răng mà chịu đựng
và hậu quả là phần lớn anh em đều bị lở loét. Riêng tổ “anh nuôi”
của tôi thì kết thúc ngày làm việc muộn hơn nên chúng tôi tắm
giặt lúc trời cũng khá tối. Mỗi lần tắm là chúng tôi tranh thủ
giải quyết luôn nỗi buồn. Ở tổ “anh nuôi” thì không lo bị đói,
nhưng chúng tôi phải đón nhận một cực hình khác, đó là lúc nào
cũng chỉ có cơm với nước mắm cái, đến nỗi khi nghe mùi mắm cái là
chúng tôi cứ như mấy bà bị ốm nghén, chỉ muốn nôn ói. Ngược lại,
mấy anh em tổ khác ra ngoài lao động, dù chỉ mỗi cục cơm vắt cho
bữa ăn rất thiếu thốn, nhất là với số tù binh thanh niên, nhưng
họ có thể kiếm thêm rau rừng, lá các loại cây ăn được, hoặc bắt
rắn rít, cóc nhái, chuột bọ gì đó để ăn thêm cho đỡ đói. Nhưng,
mãi rồi xung quanh cũng không còn gì để mà hái, mà bắt, mà lượm
nữa.
Đói! Thật
khủng khiếp khi ăn không đủ no, thiếu cả lượng lẫn chất trong khi
phải lao động nặng nhọc như cuốc đất trồng khoai mì, cõng gạo từ
kho này sang kho khác phục vụ hậu cần cho cộng sản thì bệnh tật
là hệ quả tất yếu. Tôi đã chứng kiến một anh bị bệnh thủng, ban
đầu thấy anh mập lên nên tôi nghĩ rằng anh “chịu” cơm cộng sản,
nhưng sau đó, da thịt anh bắt đầu nứt nẻ, máu và nước vàng ri rỉ
chảy ra từ những khe nứt ấy, sau đó xuất hiện dòi. Lúc ấy, anh
không còn đi đứng gì được nữa mà chỉ ngồi một chỗ dùng cọng cỏ
khều mấy con dòi cho rơi ra ngoài. Ít sau anh chết. Đó là cái
chết thứ 2 ở trại F7D. Về sau, lâu lâu chúng tôi lại nghe thêm
nhiều cái chết nữa. Nào là đi ăn cắp lương thực của đồng bào dân
tộc bị giết chết, nào là trốn trại bị bắn chết, v.v. Là người
lính thì chuyện sống, chết là bình thường, nhưng chết nhục nhã,
đau khổ và vô ích như những người tù binh chúng tôi thì thật là
xót xa. Người thân của họ sẽ không bao giờ biết được họ đã vùi
thân ở nơi thâm sơn cùng cốc này để đến viếng, thắp cho họ nén
nhang an ủi....
12/19/2016
Có lần, tổ “anh nuôi” chúng tôi được
giao nhiệm vụ đi theo để lo cơm nước cho số anh em trong trại cải
tạo phải đi chuyển gạo từ kho này sang kho khác phục vụ cho các
cánh quân cộng sản đang rầm rộ kéo vào đánh chiếm miền Nam. Việc
này trước đây thuộc về các lực lượng dân công hỏa tuyến hay thanh
niên xung phong đảm nhận, nay chúng bắt anh em tù binh gánh vác.
Thật là một ý đồ hết sức thâm độc khi dùng người của VNCH phục vụ
cho chúng để đánh người của VNCH. Tổ “anh nuôi” có 6 người được
chia làm 2, phân nửa ở lại trại, phân nửa theo anh em chuyển gạo.
Anh tổ trưởng Thạch chọn tôi và người nữa đi cùng. Chúng tôi chặt
một cái cây dài rồi treo chảo, nồi, xô đựng mắm cái, muối hột...
cho lên vai gánh đi. Còn anh em thì mỗi người tự mang theo 2 lon
gạo cho một ngày đường và tấm nylon đi mưa. Đến kho, mỗi người
phải mang một bao gạo khoảng 50kg vận chuyển đến kho khác theo
yêu cầu của bọn cộng sản. Xui xẻo là trên đường cõng gạo đi thì
trời đổ mưa, anh em lấy tấm nylon che gạo lại cho khỏi bị ướt,
nhưng đường rừng núi sình lầy trơn trượt, anh em đi lại rất khó
khăn, vất vả. Vì vậy, tốc độ di chuyển rất chậm, có người đi
không muốn nổi, phải dừng lại nghỉ mệt nhiều lần. Bọn thượng cộng
thấy vậy thay vì có hành động gì giúp đỡ hoặc thông cảm, lại to
tiếng quát nạt và có lúc chúng dùng báng súng đánh vào những
người khốn khổ đang hết sức mệt nhọc ấy. Những anh em khác vội
tìm cách san sẻ mỗi người một ít để bớt trọng lượng cho số anh em
bị kiệt sức. Sau bữa cơm chiều, anh em phản ứng với tên chính trị
viên về thái độ bất nhân của bọn thượng cộng. Lúc ấy, tên chính
trị viên lên tiếng an ủi và biện bạch là do bất đồng ngôn ngữ nên
mới xảy ra chuyện đáng tiếc. Hắn nói mong anh em thông cảm và sẽ
uốn nắn lại bọn thượng cộng.
Nhưng khi đêm đã khuya, lúc mọi người
đã ngủ thì tên chính trị viên kêu bọn thượng cộng ra một nơi cách
xa đám đông anh em tù binh đang ngủ mà hắn không để ý là lại khá
gần tổ “anh nuôi” của chúng tôi, hắn nói bằng tiếng kinh tức
tiếng Việt với bọn thượng cộng là nên cảnh giác vì anh em tù binh
có thể sẽ có hành động quyết liệt hơn với bọn chúng và hãy trừng
trị những kẻ có ý đồ gây náo loạn, tức là được quyền nổ súng tiêu
diệt vài người để răn đe. Trời xui đất khiến thế nào tôi lại thức
dậy lúc bọn chúng nói chuyện và nghe không sót một lời nào của
tên chính trị viên. Tôi cố gắng nằm im không nhúc nhích giả vờ
như đang ngủ say dù đã cảm thấy lạnh và tê mỏi muốn trở mình.
Không biết mấy anh em khác của tổ “anh nuôi” có nghe được tên
chính trị viên nói không, hay họ cũng như tôi cố nằm im vì tôi
không thấy một ai nhúc nhích, cựa quậy gì cả. Khi bọn chúng đi
rồi, tôi nằm miên man suy nghĩ: Làm thế nào cho anh em biết điều
này ngay vào sáng mai để anh em cẩn thận, đề phòng. Mặt khác, tôi
cũng nghĩ rằng chỉ mới chưa đầy một tháng kể từ khi cải tạo đến
nay, chúng tôi đã rất thấm thía về cái gọi là ngục tù cộng sản
nên nếu sau này có dịp trở lại chiến đấu, hẳn mọi người sẽ hết
lòng, hết dạ phục vụ cho đất nước, cho chính thể VNCH. Nhưng,
sáng hôm sau trời quang, mây tạnh, đường xá bớt lầy lội, trơn
trượt và chúng tôi cũng đã lấy đi cả trăm ký gạo để nấu 2 bữa cơm
cho anh em nên cũng làm giảm bớt phần nào khối lượng gạo. Nhờ
thế, anh em cõng cũng nhẹ bớt đi, vì vậy hôm đó đã không xảy ra
chuyện gì đáng tiếc.
Dù ở trong trại tù thiếu thốn đủ mọi
phương diện, nhưng chúng tôi vẫn biết được tình hình chiến sự bên
ngoài vì bọn cộng sản Bắc Việt cũng luôn theo dõi tin tức tiến
quân của chúng qua radio mà chúng gọi là cái đài. Cứ vài hôm, tên
giám đốc hoặc tên chính trị viên qua trại thông báo quân “giải
phóng” đã tiến chiếm được đến đâu. Tôi hết sức ngạc nhiên xen lẫn
nỗi thất vọng trước sự rệu rã của VNCH. Đâu rồi sự ngoan cường,
anh dũng của những Thiên Thần Mũ Đỏ, những tia chớp nhiệt đới,
sét miền Tây, v.v. và lòng tôi lại khấp khởi niềm hy vọng khi
nghe bọn chúng bị chận lại ở Bình Tuy, Rừng Lá sau khi nếm 2 trái
CBU 558. Nhưng, sau đó niềm hy vọng chỉ loé lên tích tắc rồi tắt
ngấm hoàn toàn.
Đến gần ngày 30 tháng 4 định mệnh, tên
giám đốc trại đổi nhóm khác vào làm tổ “anh nuôi”, còn chúng tôi
ra ngoài lao động và học chính trị. Thời gian học chính trị thì
không phải đi lao động. Cả trại luân phiên nhau, mỗi đợt sẽ có 3
tổ học, các tổ còn lại vẫn tiếp tục đi chuyển gạo hay trồng khoai
mì. Chúng bắt anh em tù binh học 7 bài đại ý ca ngợi về công cuộc
chiến đấu giải phóng dân tộc của chúng và lên án sự xâm lược của
đế quốc Mỹ cũng như chính thể miền Nam VN là bù nhìn, là tay sai,
là rước voi, cưỡi voi gì gì đó, v.v. mà tôi nghe buồn ngủ chết
được. Vì vậy, mỗi khi ra bãi đất trống dùng làm “lớp học” thì tôi
luôn chọn ngồi phía sau cùng để ít bị chú ý. Nhưng, phải thành
thực công nhận bọn cộng sản rất hiệu quả trong việc tuyên truyền.
Chúng bắt chúng tôi phải làm bản “thu hoạch” sau mỗi bài học để
theo dõi xem có người nào không chú ý hoặc không hiểu bài không?
Không làm được bài ư? Học tiếp đến khi nắm chắc thì thôi. Đó
chính là điều khiến tôi hết sức bực bội. Chúng xem bọn tôi như
những học sinh tiểu học không bằng. Tôi chua chát và phẫn nộ khi
nghĩ rằng mình phải chiến đấu và chịu thua truớc một đối thủ hết
sức ấu trĩ, tầm thường đến thế.
Và cái ngày đau thương ấy cũng đến. Lúc
đang nghỉ trưa ngoài “lớp học”, tên giám đốc trại với gương mặt
hớn hở cùng với 2 thằng thượng cộng mang súng AK, nhanh nhẩu đi
đến thông báo cho chúng tôi biết tin Dương Văn Minh được thay làm
Tổng Thống VNCH đã tuyên bố đầu hàng. Mọi người nhảy nhót, hò
reo, hoan hô vang dội rồi nắm tay nhau cùng hát bài “Nối vòng tay
lớn” của Trịnh Công Sơn. Riêng tôi nghe buốt nhói trong tim, một
cái gì hết sức thiêng liêng đã tan vỡ. Trong lúc anh em vui mừng
thì tôi lặng lẽ cúi đầu vào giữa 2 đầu gối để dấu những dòng nước
mắt trào ra từ sâu thẳm nỗi đau đớn của một lý tưởng đã trở thành
ảo ảnh. Từ lúc đó, có lẽ mọi người tràn trề hy vọng ngày đoàn tụ
với gia đình sẽ không xa nên hình như họ có vẻ xăng xái hơn hay
họ đã dần thích nghi với công việc và kiếp sống của tù binh mà nỗ
lực hơn, tôi cũng không biết nữa? Còn tôi thì ngày càng trầm
lặng, càng rút sâu vào cái thế giới của mình nhiều hơn. Đôi lúc
tôi cũng cố gắng tự an ủi rằng mình chẳng là cái gì của xã hội,
chỉ là một thằng tân binh trong quân lực VNCH. Thôi thì, thua keo
này bày keo khác. Với tuổi đời hãy còn trẻ, tôi sẽ đi học trở
lại, sẽ gặp lại những bạn bè xưa, sẽ yêu một ai đó rồi sẽ lập gia
đình... nhưng tôi không thể huyễn hoặc, lừa dối mình khi đối mặt
với sự thật về một điều mà vì nó tôi đã bỏ ngang việc học hành,
đành đoạn dứt áo ra đi để người mẹ thân yêu của tôi phải đau đớn
vì xa rời đứa con ương bướng, nhưng là nguồn hy vọng của bà. Điều
đó to tát hơn, vĩ đại hơn tất cả những cái vụn vặt kia gộp lại!
Hồi mới ra lao động, tôi chơi khá thân
với một anh tên Khương, cũng đã ngoài 30 tuổi, quê Tây Ninh, lính
bộ binh đóng quân và bị bắt tại Quảng Ngãi. Anh thường cất tiếng
hát vào mỗi tối khi cả trại đã lên giường và chỉ hát độc nhất bài
“Lạnh trọn đêm mưa”. Sau một ngày lao động mệt nhọc mà nghe “nhạc
sống” thì cũng an ủi hơn là nghe mấy thằng thượng cộng lảm nhảm
mấy bài “Tiến về Sài Gòn” hoặc “Xuống đường” chán còn hơn... mùi
mắm cái. Anh có chất giọng rất truyền cảm và hình như anh gửi tâm
tư, tình cảm, nỗi niềm của mình vào từng lời, từng chữ nên mỗi
khi anh trỗi giọng lên thì cả trại im phăng phắc để lắng nghe.
Ban đầu anh hát nho nhỏ chỉ vài người nằm cạnh mới nghe được vì
tên chính trị viên đã cảnh báo chúng tôi không được chửi thề đụ
má, đụ mẹ... mà theo chúng thì đó là đồ mất dạy, thua cả súc vật
khi lăng nhục người đã dứt ruột đẻ ra mình (trong khi bọn chúng
lại ném vào mặt nhau những tiếng địt mẹ, tiên sư bố chúng mầy,
v.v. Sau này, anh em tù binh chúng tôi cũng bắt chước thay tiếng
chửi thề của miền Nam bằng tiếng địa phương miền Bắc làm chúng
cay cú lắm, nhưng không làm gì anh em được). Kế đến là không được
hát nhạc “vàng” của VNCH vì đó là thứ nhạc ủy mị, rên rỉ không
thể nào chấp nhận được dưới chế độ mới. Nhưng trong cái tỉnh mịch
của rừng già về đêm, tiếng hát của anh nghe da diết làm sao, từng
câu chữ trong bài hát như xoáy vào tận cùng nỗi khắc khoải của
mỗi con người. Hoá ra, âm nhạc thực thụ có sức mạnh ghê gớm đủ để
xoá nhoà mọi ranh giới, mọi định kiến, mọi bất hoà, xung đột, mọi
giai tầng, mọi tôn giáo, mọi chủng tộc... Không những chỉ anh em
tù binh mới im lặng nghe anh hát mà bọn cán binh cộng sản và nhất
là bọn thượng cộng – là những kẻ chỉ biết vâng lời một cách mù
quáng, hình như đã quên mất những giáo điều khô cứng được lập
trình trong đầu óc chúng từ trước đó nên chúng cũng lắng nghe mà
không hề phản đối hay tìm cách ngăn cản. Có lẽ, đây là lần đầu
tiên chúng được nghe, hay đúng hơn là được đón nhận những âm
thanh, những vần điệu hay đến thế, bay bổng đến thế và giống như
những chú cừu non, chúng bắt đầu khám phá thế giới rộng lớn xung
quanh với đôi mắt ngơ ngác và hiếu kỳ. Thật bất ngờ và kỳ diệu
hơn là sau này, rất ít khi tôi nghe bọn thượng cộng ư ử mấy bài
nhạc “đỏ” của chúng nữa. Có lần tôi hỏi anh sao không hát bài nào
khác cho tươi tắn hơn, nhưng anh chỉ mỉm cười không trả lời, thấy
vậy tôi cũng không hỏi thêm....
12/22/2016
Lúc còn ở tổ “anh nuôi”, tôi thường ở
trần để làm những công việc trong nhà bếp như xách nước, đong
gạo, xới cơm, v.v. nên chiếc áo cũ kiếm được trên đường tìm về
Sài Gòn rất ít khi tôi đụng đến, vì vậy, nó vẫn còn gần như
nguyên hình dạng lúc tôi mới lấy từ trong căn nhà trống của một
người dân nào đó. Sau này, khi chuyển qua tổ khác đi lao động bên
ngoài, tôi cũng như những anh em khác phải thường xuyên mặc áo để
chống nắng, chống côn trùng đốt, cắn và giữ ấm cho cơ thể về đêm.
Vì chỉ có mỗi bộ quần áo cũ mà lại mặc suốt hết ngày này qua ngày
khác liên tục hơn tháng ròng, chỉ khi nào dơ bẩn, hôi hám quá tôi
mới phải đem giặt mà cũng phải tranh thủ giặt xong đem vào nhà
bếp hơ cho nhanh khô để có mặc tiếp nên bộ quần áo của tôi nhanh
chóng rách nát. Một số anh em khác cũng lâm vào tình trạng như
tôi. Chẳng còn cách nào khác, chúng tôi gặp trực tiếp tên giám
đốc trại F7D kiến nghị phát cho chúng tôi quần áo để mặc vì chúng
tôi lập luận rằng mình cần phải giữ cho cơ thể trong tình trạng
tốt nhất để có thể lao động với năng suất cao nhất và một phần
khác cũng quan trọng không kém là chúng tôi cũng rất e ngại khi
trong trại có mặt 2 phụ nữ trong đội ngũ cán binh Bắc Việt. Cũng
may là kiến nghị của chúng tôi được chúng chấp thuận và chúng tôi
được phát mỗi người một bộ quần áo loại dính liền màu trắng mà ta
hay gọi là đồ người nhái của VNCH. Bộ đồ này khá dầy nên mặc để
ngủ thì thích hợp, nhưng khi lao động thì quả là cực hình vì nó
vô cùng bí bách, nóng nực. Tệ hại nhất là lúc đi vệ sinh, chúng
tôi phải lột tuột ra hết mới có thể giải quyết được nhu cầu. Có
anh em thấy việc mặc đồ như vậy khá bất tiện nên xé làm 2 phần
riêng biệt, áo không còn dính chung với quần, nhưng như vậy lại
vướng phải vấn đề khác là quần không có dây thắt lưng nên thường
bị tuột. Quả là họa vô đơn chí! Về sau, có anh lại nghĩ ra cách
khắc phục tình trạng quần tuột là xé phần lưng quần thành sợi rồi
cột lại với nhau, thế là có thể an tâm làm bất cứ việc gì mà
không lo bị cái quần phản phé.
Hồi còn ở nhà, mỗi bữa ăn của tôi phải
đến một lít gạo, tương đương 10 chén cơm, chưa kể thức ăn. Khi
nhập ngũ, tôi thường ăn một nón sắt đầy cơm mới no. Trong trại
cải tạo, khẩu phần ăn bị giảm xuống chỉ còn một phần ba, lại
không có thức ăn gì bù đắp trong khi phải lao động hết sức nhọc
nhằn kéo dài nên tôi nhanh chóng bị suy kiệt. Tôi thường bị mệt
và mất sức rất nhanh khi làm bất kỳ công việc gì. Lúc nào tôi
cũng thấy đói. Đói đến hoa mắt, tay chân như không có sức. Khi đi
trồng khoai mì gần rẫy đồng bào dân tộc, tôi thường phải xin họ
khi thì củ khoai, lúc là trái bí rồi cứ thế nhai sống cho đỡ đói,
nhưng xin mãi cũng kỳ, với lại đồng bào cũng không dư dật gì mà
cho mãi nên tôi cũng len lén hái hoặc moi trộm dù biết rằng đó là
hành vi xấu xa và nếu bị phát hiện thì... Đã có những cái chết
trước đó cảnh báo về tình trạng anh em tù binh trộm cắp của đồng
bào dân tộc, nhưng tôi đói kinh khủng khiếp.
Vào một tối, tôi không thể nào dỗ giấc
ngủ được mà cứ lăn qua lộn lại mãi trong khi bụng thì liên tục
sôi, tôi chợt loé lên một suy nghĩ và đó là suy nghĩ vô cùng táo
bạo mà tôi dám khẳng định sẽ không có một người tù binh nào từ
trước đó và đến sau này dám bắt tay thực hiện. Đó là trộm gạo
ngay chính trong nhà kho của bọn canh giữ tù. Nguyên nhân đưa tôi
đến suy nghĩ này là khi còn ở tổ “anh nuôi” tôi cũng thường qua
kho của bọn chúng để nhận gạo về nấu, nên tôi nắm được quy luật
về giờ giấc và đường đi nước bước trong kho gạo. Cửa rào và cửa
kho gạo không có khoá mà chỉ đóng rồi cột dây cho khỏi bung ra mà
thôi.
Bọn cán
binh thì sau bữa cơm chiều là chúng rút về chỗ ngủ, họa hoằn lắm
mới xuống nhà bếp mà kho gạo đuợc ngăn cách với nhà bếp bằng một
tấm vách, chỉ khi nào cần đong gạo mới có người, còn ngoài lúc đó
thì không có ai. Vấn đề là làm sao từ ngoài sân đi vào nhà kho mà
không bị phát hiện? Sở dĩ tôi nghĩ việc trộm gạo từ trong kho của
trại là vì trước hết lúc đó tôi quá đói, kế đến là tôi khá tự tin
và liều mạng khi nghĩ rằng nếu bị bắt gặp tại kho cùng lắm tôi
chỉ bị đánh, bị bỏ đói vài ngày chứ không thể bị bắn chết dù đã
có những cái chết trước đó với lý do ăn trộm, nhưng tôi nghi ngờ
điều đó. Phải có điều gì khác lớn hơn là chỉ vì mấy củ khoai,
trái bí mà anh em tù binh bị bắn chết, nhất là đồng bào dân tộc
làm gì có loại vũ khí hiện đại như AK47? Lý do duy nhất mà tôi
nghĩ họ bị bắn chết là sự trả thù cho những thiệt hại mà những
anh em này đã gây ra cho bọn cộng sản khi còn phục vụ trong quân
đội VNCH, được che dấu bởi những lý do hết sức nhảm nhí – ăn trộm
hay trốn trại!
Tôi cố suy nghĩ làm cách nào để che bộ
quần áo trắng của tôi cho khỏi nổi bật trong bóng đêm. Cuối cùng
tôi quyết định mượn chiếc áo Jacket của một người tù binh khác,
nằm cách chỗ tôi vài người, tên anh ta là Trần Đại. Đó là một
người lính thuộc binh chủng Biệt Động Quân, khoảng ngoài 30 tuổi,
quê Quảng Ngãi. Khi nghe tôi hỏi mượn áo, anh ta hỏi lại tôi để
làm gì? Không trả lời thẳng câu hỏi của anh ta, tôi ỡm ờ:
– Anh có đói không? Tôi đi kiếm gạo nấu
cơm ăn.
– Ở
đâu có mà mầy kiếm? Mầy tính đi chôm hả?
Không biết trả lời thế nào cho hợp lý,
tôi đành gật đầu. Bấy giờ anh ta hạ thấp giọng thì thào hỏi:
12/24/2016
– Mầy tính chôm gạo của tụi nó hả?
Câu hỏi thừa vì ngoài “tụi nó” ra thì
anh em tù binh làm gì có gạo mà trộm. Bực mình vì bị hỏi lung
tung mất thời gian, tôi hỏi cộc lốc:
– Anh có cho mượn không mà hỏi hoài
vậy?
Vừa cởi
áo đưa tôi, Đại vừa đe:
– Một chút không có là mầy chết với
tao.
Khoác vội
chiếc áo Jacket vào người xong tôi xắn quần nhái lên cao tới háng
để không bị lộ phần màu trắng ra ngoài và lấy cái bao thường dùng
đựng cát xếp lại gọn gàng cho vào túi áo Jacket rồi đi về phía
nhà kho. Không có ai vì thường ăn cơm chiều xong là mọi người đều
lên giường nghỉ để duỡng sức hầu mai tiếp tục lao động. Tuy vậy,
tôi vẫn chuẩn bị sẵn câu trả lời nếu bất chợt gặp một ai đó hỏi
tại sao đi đâu giờ này thì tôi sẽ nói là bị đau bụng, nhức đầu gì
đó phải đi gặp lãnh đạo trại để xin thuốc uống. Tôi mở dây cột
cổng rào rồi bước nhanh về phía cửa kho gạo. Đến nơi, tôi gấp rút
mở dây cột cửa, nhưng tôi hơi ngạc nhiên là cửa kho gạo không
được cột lại như thường lệ. Tôi lách vội vào trong rồi mò mẫm đi
về hướng cái bồ đựng gạo, nó nằm sát vách nhà bếp của tụi cán
binh quản lý trại. Nhưng tôi chợt rụng rời khi phát hiện thấy ánh
sáng lọt qua mấy khe hở của tấm vách ngăn và tiếng xì xầm nói
chuyện của ít nhất 2 người có cả nam lẫn nữ, phát ra từ phía nhà
bếp. Đây là một tình huống ngoài dự đoán của tôi. Tôi phân vân
không biết xử lý như thế nào lúc đó. Bất đắc dĩ tôi phải lắng
nghe chúng nói với nhau những gì để có thể tính tiếp. Thì ra bọn
chúng đang nhổ lông vịt để nấu cháo. Tôi kinh hoàng khi nhớ là
cái cửa kho không được cột lại. Có nghĩa là bọn chúng sẽ trở lại
nhà kho để lấy gạo về nấu cháo. Hoặc, nếu đã lấy gạo rồi nhưng
chúng nhớ chưa cột cửa mà quay lại cột vào thì tôi sẽ bị nhốt
trong kho gạo cho tới sáng hôm sau đến khi có người đi lãnh gạo.
Lúc đó tôi chết chắc. Nghĩ tới thảm cảnh đó, tôi muốn tháo lui,
nhưng lại thấy tiếc vì đã vào được đến đây, gạo đang trong tầm
tay mà bỏ đi thì không đành. Thế là tôi quyết định sẽ trộm một ít
gạo rồi rút lui cũng được.
Tôi mở cái bao đựng cát ra mà nghe
tiếng sột soạt vang lồng lộng. Tôi thầm cầu khẩn tất cả những vị
thần thánh nào mà tôi nhớ tên xin giúp tôi tai qua nạn khỏi trong
vụ này. Mở bao ra rồi, tôi không dùng cái thau để múc gạo mà dùng
tay lùa gạo vào bao. Dù rất chậm rãi và nhẹ nhàng, nhưng sao tôi
vẫn nghe âm thanh vang dội theo từng động tác của mình. Tôi bèn
canh lúc bọn nhổ lông vịt nói chuyện thì lùa gạo vào bao với hy
vọng tiếng nói chuyện sẽ át tiếng khua phát ra từ động tác của
tôi. Được gần nữa bao, tôi túm miệng bao lại xách lên. Tôi không
thể lấy đầy bao vì như thế sẽ rất nặng và cồng kềnh không thể cất
dấu khi đi ra ngoài mà chẳng may gặp phải ai đó. Với lại, tôi
không đủ can đảm nán lại trong kho để hốt thêm được nữa. Lúc đi
đến gần cửa kho, tôi vô cùng hồi hộp vì không biết cửa có bị cột
lại chưa? Hoặc vừa mở cửa ra mà gặp tụi cán binh đứng lù lù trước
cửa thì kể như tất cả mọi cố gắng của tôi từ đầu hôm đến giờ đều
vô nghĩa. Tôi đẩy nhẹ cửa, chưa bị cột, tôi thở phào rồi nhìn ra
ngoài, không có ai. Tôi bước nhanh ra ngoài đóng cửa lại như cũ
rồi đi về phía cổng rào. Chỉ cách khoảng chục mét thôi mà sao tôi
thấy xa vời vợi. Đây là khu vực của bọn quản lý trại tù, anh em
tù binh không được quyền qua lại trừ mấy người tổ “anh nuôi” lúc
đi nhận gạo về nấu cơm. Nỗi sợ thúc giục tôi hãy chạy nhanh ra
khỏi nơi nguy hiểm, nhưng lý trí vẫn bảo tôi hãy cố gắng bình
tĩnh vì chỉ cần một sơ suất nhỏ làm người khác chú ý là sẽ trả
giá đắt và tôi đã hành động theo lý trí. Khi băng qua cổng rào,
tôi như đã trút bỏ được gánh nặng ngàn cân treo trong tim từ lúc
bước chân vào ranh giới giữa trại tù và bọn quản lý, nó giống như
ranh giới giữa sự sống và cái chết.
Về đến chỗ ngủ của mình, tôi thấy Đại
đang ngồi bó gối chờ tôi. Đưa bao gạo cho Đại đem dấu, tôi nghe
Đại thì thầm bên tai:
– Đ.M. Tao sợ cho mầy gần chết.
– Anh kiếm cái lon, cái hộp gì đó nấu
miếng cơm ăn đi. Tôi cũng sợ chết mẹ. Tụi nó nhổ lông vịt trong
bếp. May mà nó không biết.
– Ừ! Tao thấy tụi nó đi ra, đi vô. Bởi
vậy tao mới sợ cho mầy.
Nói xong, Đại lấy chiếc áo Jacket mà
tôi vừa trả đem che bao gạo lại rồi xách đi về phía nhà bếp. Lúc
nằm nghỉ chờ cơm, tôi nhớ lại sự việc mà kinh sợ xen lẫn một chút
tự hào. Không biết mấy vị thần thánh gì đó có nghe lời cầu khẩn
hết sức thành kính của tôi mà ra sức che chở hay số phận của tôi
chưa hết mà tôi đã luớt qua hiểm nguy một cách kỳ diệu. Lát sau,
Đại mang lên một cái lon đựng cơm, 2 đứa âm thầm bốc ăn mà không
ai nói với ai tiếng nào nữa. Đêm đó, tôi không thể ngủ ngon giấc
vì nỗi ám ảnh của hành động đã qua.
Tối hôm sau, tôi kêu Đại lấy gạo ra nấu
cơm ăn vì chúng tôi không thể nấu ban ngày sẽ có nhiều người
biết, nhưng Đại cho biết tối qua lúc lấy gạo để nấu cơm xong đem
dấu, nhưng không biết ai đã lấy mất rồi. Tôi tức giận vô cùng.
Bao nhiêu công sức, bao nhiêu hiểm nguy mình phải chịu đựng rốt
cuộc lại chỉ có được một bữa ăn, còn người khác ở không hưởng
lợi. Tôi nghi ngờ Đại đã không thành thực, nhưng tôi không thể
làm gì khác được. Tôi tự an ủi là số gạo mà tôi trộm được thật sự
cũng không nhiều lắm, chưa đầy nửa bao đựng cát thì cũng chỉ ăn
được vài ngày, sau đó sẽ tiếp tục trở lại tình trạng đói mà thôi.
Nhờ suy nghĩ theo chiều hướng vậy nên tôi cũng nguôi ngoai đi
nhiều....
12/25/2016
Một
buổi sáng cuối tháng 5/75, tức sau ngày giải phóng khoảng một
tháng, tên giám đốc trại F7D cho họp toàn thể anh em tù binh lại
để thông báo ban giám đốc trại sẽ tổ chức phóng thích cho những
anh em nào đạt “thành tích” trong việc thành khẩn khai báo, ít có
“nợ máu với nhân dân” và trải qua quá trình học tập cải tạo có
tiến bộ... sẽ được trả về sum họp với gia đình. Lẽ ra khi đón
nhận nguồn tin như thế, mọi người sẽ vui mừng mới phải. Nhưng,
tôi thấy ai nấy cũng dửng dưng tỏ vẻ không quan tâm. Có thể họ đã
quá mệt mỏi hoặc tệ hơn là không còn tin vào cộng sản nên những
lời nói của tên giám đốc trại không đủ sức thuyết phục họ được
nữa. Tôi nghĩ mình sẽ có tên trong đợt này nếu thật sự có phóng
thích, vì tôi đâu có gì để viết trong bản khai. Nhưng, có lẽ
chúng ghét tôi tình nguyện gia nhập quân đội năm 17 tuổi hay sao
ấy mà trong danh sách mấy chục người không có tên của tôi. Khi số
người này rời khỏi trại, không ai nói lời từ biệt cũng không ai
thốt lên hẹn gặp lại gì cả. Đơn giản là không ai biết được điều
gì chờ đợi mình ở phía trước. Vì vậy, tôi cũng như nhiều anh em
tù binh khác vẫn chẳng thấy buồn lo hay trăn trở gì. Chúng tôi
vẫn một ngày như mọi ngày, chỉ có điều trong trại trở nên vắng vẻ
hơn, ảm đạm hơn so với lúc mới được lập.
Trong điều kiện ăn ở, sinh hoạt thiếu
thốn và mất vệ sinh như trong trại tù, chúng tôi đều bị rận. Đó
là những con vật nhỏ li ti hình dáng giống hệt con chí (chấy)
nhưng có mầu trắng sống bám vào quần áo để hút máu. Thế là chúng
tôi có thêm việc làm sau những giờ lao động là bắt rận để giết
thời gian. Nói đến rận cũng phải nhắc đến chí (chấy) cho đủ cặp.
Nhiều tháng liền không cắt tóc, gội đầu nên mỗi lần gãi đầu là
chắc chắn sẽ rớt ra vài con. Chúng tôi nhìn giống con vật gì đó
hơn là giống người với đầu tóc bờm xờm, da dẻ xanh xao, thân hình
ốm yếu, tiều tụy, hốc hác... nếu người nhà có gặp cũng chưa chắc
nhận ra. Nhưng, đó chưa phải là nỗi thống khổ nhất cho đến khi
vào một ngày, tôi bỗng nhận ta mình bị ghẻ ngứa, lúc đầu chỉ ở
những vùng da non rồi lan dần khắp người theo những cái gãi của
tôi. Bộ áo liền quần của tôi từ mầu trắng ban đầu đã biến thành
lốm đốm đủ mầu do bùn đất, do mồ hôi và máu mủ mà thành. Bây giờ,
nó đã dầy lên và cứng còng như một cái áo giáp vì nước vàng từ
những đám ghẻ chảy ra rồi từ từ khô lại. Tôi hết sức đau đớn mỗi
khi cử động nên không thể đi lao động được nữa. Tôi nằm một chỗ
riêng biệt và nhớ đến anh chàng bị bệnh phù thủng lúc trước. Có
lẽ tôi cũng sắp chết như anh ấy. Mỗi ngày tôi đều nhìn vào mớ máu
mủ trong người để xem có giòi không? Tôi hối hận vì đã làm mẹ
mình đau buồn. Nếu tôi có bỏ mạng nơi đây hẳn là tôi sẽ tìm về
bên mẹ mong bà tha thứ cho sự bướng bỉnh của mình.
Nhưng, số tôi chưa tận vì sau đó một
tháng kể từ đợt phóng thích đầu tiên, trại F7D lại tổ chức phóng
thích đợt hai. Lần này có tên của tôi. Khi cầm tờ giấy phóng
thích trên tay, tôi mừng cho mình nhưng lại buồn cho những anh em
còn ở lại. Không biết họ có sống nổi đến đợt phóng thích sau
không? Cũng như lần trước, không có lời từ biệt, không câu hò hẹn
nào được thốt lên. Rồi chúng tôi lũ lượt kéo nhau đi, nhưng tôi
không thể đi nhanh như cái lần rời chùa tỉnh hội Đà Nẵng tìm về
Sài Gòn giống lúc trước được nữa. Giờ đây, tôi chỉ còn là một bộ
xương biết cử động. Nhìn những anh em thoăn thoắt trên đường, tôi
không hiểu họ lấy đâu ra sức lực để đi được như thế? Rất may là
tôi không phải đi một mình mà có thêm một người bạn đồng hành. Đó
là một người lính già cũng không đủ sức bám theo đám người trẻ
kia nên chúng tôi cùng chậm chạp kè nhau xuống núi. Phải nói là
nếu không nhờ có anh, tôi không biết đường nào đi mà giữa rừng
núi đâu có ai để hỏi thăm. Chúng tôi ngủ lại nhà dân ven đường
một đêm rồi xuống tới Quảng Ngãi. Sau nhiều tháng trời sống trong
rừng sâu núi thẳm, hôm nay mới được dịp nhìn lại phố thị. Không
biết Quảng Ngãi trước đây như thế nào chứ hiện tại tôi thấy nó
cũng không được náo nhiệt cho lắm. Có thể tôi đã quen với sự nhộn
nhịp, tất bật của Sài Gòn và Đà Nẵng chăng? Hay cuộc sống sau
giải phóng là như thế? Điêu tàn và thiếu sinh khí.
Chúng tôi tìm đến bến xe Quảng Ngãi để
xin quá giang về Sài Gòn. Một anh chàng chắc là trưởng bến lên
tiếng trách chúng tôi ham chơi, la cà đâu đó nên giờ mới mò tới
bến xe để xin về. Anh ta nói hôm qua đã bố trí cho hai chiếc xe
đò đưa số anh em cải tạo đi rồi nên giờ không có xe nữa. Chúng
tôi trình bày hoàn cảnh của mình là người thì bệnh, người thì già
nên đi đứng chậm chạp không thể theo kịp anh em. Mặt khác, chúng
tôi là người Sài Gòn đi lính rồi học cải tạo ngoài này nên đâu
quen biết ai ở đây mà la cà. Thấy chúng tôi thành thật, anh xuống
giọng nói giờ chỉ có xe hàng thôi, nhưng chỉ đi tới Cam Ranh chứ
không về Sài Gòn, nếu chúng tôi chấp nhận thì lên xe. Trong tình
thế này thì quá tốt đối với chúng tôi rồi, nhưng anh bạn già lại
đổi ý đòi ở lại, thế là một mình tôi lên xe đi về phương Nam.
Trên xe có vài người phụ nữ là dân buôn bán đường dài, trong đó
có hai cô gái cũng trạc tuổi tôi khiến tôi thấy xấu hổ khi nhìn
lại bộ quần áo lem luốc, rách rưới, trống trên hở dưới của mình.
Tôi bèn ngồi vào cái bánh dự phòng dù không hề êm ái chút nào,
nhưng còn hơn là phải tênh hênh ra trước mặt mọi người. Dọc
đường, khi xe dừng lại để cho mọi người đi vệ sinh hay ăn cơm,
tôi vẫn ngồi lỳ trong cái bánh dự phòng trên xe. Chỉ đơn giản một
điều là tôi không có tiền thì có xuống xe, tôi cũng không biết
làm gì, mua gì? Thấy tôi không rời khỏi xe, mấy người phụ nữ chắc
cũng hiểu tình cảnh của tôi nên họ mua cho tôi mấy cái bánh tét,
nhưng tôi không thể nào ăn được vì nhớ đến số anh em tù binh còn
ở lại trại. Nước mắt tôi lại ứa ra. Có lúc tôi thấy mình thật là
kỳ? Khi còn trong trại thì đói khát thèm ăn đủ thứ, nhưng khi ra
ngoài có đồ ăn trong tay thì lại nghẹn ngào không thể ăn được.
Đến tối, xe tới Cam Ranh. Những người
phụ nữ lần lượt xuống xe, chỉ còn lại mình tôi. Anh tài xế chắc
cũng là chủ xe hỏi tôi xuống đâu? Tôi xin về nhà anh ngủ nhờ một
đêm vì đối với tôi bây giờ ở đâu cũng vậy, đều là xa lạ. Khi đến
nhà, anh mời tôi cùng ăn cơm với anh, nhưng tôi xin phép ăn riêng
vì tôi không muốn mọi người mất ngon khi ngồi chung với người có
hình dáng dơ bẩn, gớm ghiếc như mình. Đó cũng là lần đầu tiên sau
hơn nửa năm trời, tôi mới được ăn cơm trắng với canh chua, cá
kho. Thật là một trong số rất ít bữa ăn ngon nhất trong đời của
mình. Sau đó, tôi xin phép được ngủ ngoài hàng hiên nhà anh dù
gia đình anh nhiều lần kêu tôi đi tắm và vào ngủ trong nhà, nhưng
tôi rất kiên quyết từ chối.
Hôm sau, từ giã gia đình anh tài xế tốt
bụng, tôi tìm đường ra quốc lộ 1 để kiếm xe về Sài Gòn. Có những
người phụ nữ là vợ lính VNCH đem theo con nhỏ đi tìm chồng. Họ
không thấy chồng trở về từ sau giải phóng đến nay nên lặn lội đi
tìm mà không biết người chồng thân thương của họ còn sống hay đã
chết và nếu còn sống thì đang lưu lạc phương nào, giống như tôi
chẳng hạn. Gặp tôi, họ vồn vã hỏi thăm về đơn vị, về nơi đóng
quân, có biết người tên gì đó không và nơi tôi đã học tập cải
tạo, v.v. nhưng tôi cũng không cung cấp được gì nhiều cho họ.
Có nhiều chiếc xe đò đi về Sài Gòn chạy
qua, nhưng tôi không thể bắt được chiếc xe nào dừng lại. Chỉ vì
họ thấy hình dạng tôi quá ư là nhếch nhác, bẩn thỉu không thể nào
là khách đi xe được nên chạy luôn. Thấy vậy, một chị phụ nữ đi
tìm chồng đích thân đón dùm tôi được một chiếc xe đò. Khi tôi lên
xe, anh chàng phụ xe (lơ) nhìn tôi bằng ánh mắt khó chịu rồi
thẳng thừng hỏi tôi:
– Anh đi xe hả?
Tôi gật đầu. Anh ta hỏi tiếp:
– Có tiền trả tiền xe không?
Tôi lắc đầu. Thế là anh ta chửi tôi nào
là ngụy, nào là đồ lừa đảo, dối trá, bịp bợm gì đó một thôi, một
hồi. Có một bà già cũng trạc tuổi mẹ tôi thấy vậy móc túi định
trả tiền xe cho tôi, nhưng anh chàng phụ xe kia hình như thấy
mình cũng quá đáng khi phát hiện có nhiều người trên xe nhìn anh
bằng ánh mắt thiếu thiện cảm nên đã im lặng, chẳng những vậy anh
ta còn lấy một cái ghế nhựa cho tôi ngồi ở giữa 2 hàng ghế. Cũng
như lúc quá giang xe hàng từ Quảng Ngãi về Cam Ranh, tôi cũng
không dám rời khỏi xe để đi vệ sinh và cũng không thể ăn uống
được gì. Tôi chỉ mong muốn một điều là được nhanh chóng về với
gia đình của mình, với người mẹ thân yêu của mình để quỳ xuống
xin lỗi bà.
Khi xe vào Sài Gòn, bao nhiêu cảm xúc trỗi dậy làm tôi lại rơi
nước mắt. Quê nhà thân yêu của tôi đây rồi. Cảnh cũ vẫn còn
nguyên vẹn như lúc tôi rời đi khi chọn binh nghiệp làm lẽ sống.
Nhưng, có một cái gì đó rất khác đã xảy ra. Sài Gòn không còn xe
cộ nhộn nhịp, không còn cảnh nam thanh nữ tú dập dìu, hàng quán
tấp nập như trước nữa. Một sự đìu hiu bao trùm lên toàn bộ không
gian nơi từng được ca ngợi là hòn Ngọc Viễn Đông. Xe vừa qua cầu
Bông thì tôi xin xuống vì đã gần đến nhà. Tôi thả bộ trên con
đường quen thuộc ngày xưa, nhưng tôi không có được cảm giác háo
hức của một người đi xa trở về. Nó xa lạ, trống vắng làm sao. Từ
đầu hẻm Trường Tiền vào nhà, không một ai trong xóm nhận ra tôi.
Có lẽ tôi không còn là tôi cũng như Sài Gòn không còn là Sài Gòn
nữa. Vẫn là hình dáng ấy, nhưng đã khác hẳn. Những đứa em tôi
chắc là bằng linh cảm của tình máu mủ nên chúng nhận ra được tôi
và reo ầm lên làm ba tôi đang chẻ củi chuẩn bị cho bữa cơm chiều,
giật nẩy mình. Ông buông rơi con dao trên tay nhìn sững vào thằng
người đứng trước mặt ông giây lát như không tin vào sự thật rồi
ông ôm chầm lấy tôi, mắt ông đỏ hoe. Mẹ tôi từ trong nhà chạy vụt
ra với 2 hàng nước mắt giàn giụa, bà cũng lao vào ôm chặt tôi.
Tôi nhìn kỹ 2 người thân yêu của mình. Họ già đi nhiều, chắc là
đã quá lo lắng cho tôi. Sau này, tôi nghe họ kể lại là thằng bạn
học cùng xóm với tôi tên Phan Đông, đi lính trước tôi vài tháng ở
Đoàn 71, cũng từ Đà Nẵng về tới Lái Thiêu, đụng trận với việt
cộng và đã hy sinh, làm ba mẹ tôi càng thêm bấn loạn. Sau giây
phút gặp gỡ đầy cảm xúc, tôi bước vào nhà nhìn quanh. Tất cả đều
còn nguyên như trước. Tôi lấy quần áo của mình rồi đi tắm. Tôi
phải rất khổ sở mới trút bỏ được bộ đồ cải tạo ra khỏi người vì
máu mủ bê bết đã làm nó như dính chặt vào da. Tắm xong, tôi xách
bộ đồ dơ đã gắn bó, che chở cho tôi một thời gian dài bỏ vào
thùng rác như muốn quên đi một giai đoạn hết sức đau buồn. Nhưng,
về với những người thân yêu trong gia đình chỉ là một sự chuyển
tiếp trong chuỗi đời sống của những người lính VNCH như tôi khi
tương lai hết sức mờ mịt vì cả miền nam Việt Nam đã trở thành một
nhà tù rộng lớn của chế độ cộng sản vô đạo. Tất cả sự tàn bạo của
cái chế độ đáng nguyền rủa này đang nhe nanh, múa vuốt chờ đợi
chúng tôi, chờ đợi những người thua cuộc, ở phía trước./.
Chánh Nguyễn (Toán 726 ĐCT72)
Nguồn:
http://doancongtac72.blogspot.com/2016/12/ky-uc-mot-thoi-chanh-nguyen-toan-726.html
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Edge hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by HL Phạm Hòa chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, October 16, 2022
Liên lạc:
E-mail: NhaKyThuat@yahoo.com
Post Office Box 1982
Tustin, CA 92780-5112 U.S.A.
Trở lại đầu trang