Tổng Hội Nha Kỹ Thuật
Bút
ký
Chủ đề:
Toán ASP–NKT
Tác giả:
Ken Conboy & James
Morrison
Người dịch:
vđh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Nhắn
tin Bobby Nguyễn (Nguyễn Văn Việt)
Thông Dịch Viên Toán Biệt
Kích ASP Chiến Đoàn 1 Xung Kích.
Bobby Nguyễn (Nguyễn Văn Việt), anh ấy là Thông dịch viên của
RT ASP, 1975 qua Mỹ tình nguyện đi xuống Nicaragua chiến đấu
và đã chết chung với 2 người bạn Mỹ vào năm 1978.
Cuối năm 1967, đoàn
Nghiên Cứu Quan Sát (SOG), một đơn vị bao gồn liên quân binh
chủng trong quân đội Hoa Kỳ cho chiến tranh ngoại lệ, có bộ chỉ
huy trong Sài Gòn, đã tổ chức các cuộc hành quân vượt biên sang
đất Lào được hai năm. Các toán biệt kích SOG gọi là “Spike Team”
có 12 quân nhân, 3 quân nhân LLĐB/HK và 9 biệt kích quân sắc dân
thiểu số ở Việt Nam. Đơn vị SOG đã thực hiện nhiều chuyến hành
quân xâm nhập, lấy tin tức, phá hoại, v.v. rất thành công trong
năm đầu.
Đến
đầu năm 1967, các đơn vị Bắc Việt/VC xâm nhập vào miền nam Việt
Nam trên đường mòn HCM đã được báo động, đề phòng các toán biệt
kích (đơn vị SOG). Do đó con số tổn thất của đơn vị SOG lên cao.
Càng “nhức đầu” hơn nữa cho các cấp chỉ huy đơn vị SOG, những
người soạn thảo kế hoạch hành quân, mức độ xâm nhập người, vũ
khí, tiếp vận trên đường mòn HCM gia tăng.
Chính quyền Washington quyết định “đóng
cửa” đường biên giới nam Việt Nam, bằng những bãi mìn, hàng rào
điện tử. Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara tin tưởng sự xâm
nhập của quân đội Bắc Việt vào miền nam sẽ giảm đi. “Bức Tường
McNamara” sẽ cung cấp câu trả lời kỹ thuật về việc chống xâm nhập
trong cuộc chiến Việt Nam.
Khi phương pháp này được thực hiện, đơn
vi SOG sẽ phải đảm nhiệm một phần kế hoạch. Trong mùa thu năm
1967, đơn vị SOG mở thêm hai căn cứ hành quân tiền phương (FOB),
để cho các toán biệt kích đem máy dò thám (báo động) vào đặt “lớp
bên ngoài” bức tường McNamara. Căn cứ hành quân tiền phương 3
(FOB–3, mới) đặt ở trong trại LLĐB Khe Sanh, căn cứ 4 (FOB–4) nằm
trong Ngũ Hành Sơn phiá nam Đà Nẵng. Để cung cấp một số toán biệt
kích cho mỗi căn cứ hành quân, một đợt lính LLĐB/HK được tăng
cường cho đơn vị SOG trong ba tháng cuối năm 1967.
Căn cứ hành quân tiền phương 4 là nơi
các toán biệt kích mới được thành lập và đặt tên theo các loại
rắn, một trong những toán biệt kích có tên là Asp, một toán đặc
biệt.
Asp được
thành lập vào đầu năm 1968, lúc đó các cấp chỉ huy đơn vị SOG
nhận thức rằng, một toán biệt kích 12 người, “quá nhiều” khó di
chuyển, lẩn tránh địch quân. Kết quả các toán biệt kích mới sau
này chỉ có từ 7 đến 10 người. Toán biệt kích Asp là toán đầu tiên
được thành lập theo mô hình mới này. Trưởng toán là Trung sĩ
George “Ron” Brown, Trung sĩ Alan Boyer đã từng làm trưởng toán
biệt kích Boa cũng gia nhập toán cùng với Trung sĩ Charles Huston
và bảy biệt kích quân Việt Nam (người dân tộc thiểu số).
Điểm đặc biệt nữa về toán Asp, trong
tháng Ba năm 1968, đơn vị SOG nhận được một số máy nghe lén điện
thoại, một phần trong chương trình danh hiệu Circus Act (Trình
Diễn Cirque). Trước đó nhiều toán biệt kích SOG đã xâm nhập đặt
máy nghe lén điện thoại kiểu cũ, có thể thâu băng các cuộc nói
chuyện của quân đội miền Bắc vài giờ trong ngày. Máy mới trong
chương trình Circus Act có thể thâu băng mấy tuần lễ, đơn vị SOG
quyết định đem máy mới vào đặt tại một vị trí quan trọng, cách
đường mòn HCM 15 cây số, nơi có nhiều binh trạm của quân đội Bắc
Việt ở Tchepone trên đất Lào và toán biệt kích Asp được trao cho
nhiệm vụ này.
Nhiều đơn vị Bắc Việt đóng quân xung quanh Tchepone, nên toán Asp
được thêm một điểm đặc biệt nữa, xâm nhập qua ngã Thái Lan, thay
vì phát xuất từ các căn cứ hành quân tiền phương trong miền nam
Việt Nam. Chính quyền Thái Lan lúc đó ủng hộ người Hoa Kỳ giúp đỡ
miền nam Việt Nam chống cộng sản, nhưng sự hiện diện của các toán
biệt kích SOG trên đất Thái Lan làm họ khó chịu. Trước đó ngày 14
tháng Giêng, một phản lực cơ phá sóng radar EB–66 của Không Quân
Hoa Kỳ bị rơi ngoài bắc đối diện tỉnh Sam Neua của Lào. Các trực
thăng cấp cứu bay đến bị súng cao xạ phòng không Bắc Việt “đuổi
về”. Đơn vị đi cứu phi công xin SOG cho hai toán biệt kích xâm
nhập vào miền bắc, làm thành phần an ninh khu vực phi cơ bị rơi,
cho việc tìm kiếm, cứu phi công.
Việc đầu tiên, hai toán biệt kích được
phi cơ vận tải C–130 (biệt phái làm việc với đơn vị SOG, sơn mầu
đen, không phù hiệu) đưa qua phi trường Nakhon Phanom bên Thái
Lan. Thứ hai, trực thăng Ch–3 thuộc Phi đội 20 Cảm Tử cất cánh từ
phi trường Udon cũng ở Thái Lan bay lên “bốc” hai toán biệt kích
SOG trong phi trường Nhakhon Phanom, rồi bay ngang qua không phận
nước Lào đến khu vực phi cơ bị rơi. Trước đó Phi đội Cảm Tử đã
từng đưa biệt kích quân Việt Nam xâm nhập miền bắc Việt Nam trong
chương trình 34A.
Chuyến hành quân cứu phi công bị bắn
rơi có danh hiệu “Quạ Già” (Old Crow) diễn tiến đúng theo kế
hoạch, yêu cầu của chính quyền Thái Lan, khi chiếc C–130 chở biệt
kích SOG đáp xuống phi trường Nakhon Phanom, một xe buýt sơn mầu
đen sẽ chạy đến đưa hai toán biệt kích đến chỗ mấy chiếc trực
thăng CH–3 đang đợi. Sau đó mấy chiếc trực thăng cất cánh ngay
tức khắc, để tránh những cặp mắt tò mò.
Hợp đoàn trực thăng bay được khoảng nửa
giờ đồng hồ, chuyện không may xảy ra, một trong số phi công trực
thăng, Thiếu tá Kyron Hall báo cáo dầu hộp số trực thăng của ông
ta xuống thấp (bị hở...) nên phải bay trở về Thái Lan đáp khẩn
cấp. Hợp đoàn thả biệt kích báo cáo về xin đổi một trực thăng
khác để tiếp tục nhiệm vụ. Hai chiếc còn lại cũng bay theo về đáp
trên một khoảng đất trống gần một làng yên tĩnh.
Khi trực thăng Thiếu tá Hall đáp xuống,
mở cửa cho toán biệt kích xuống. Những biệt kích quân Việt Nam
(người dân tộc thiểu số) vì lẽ gì đó không được biết vấn đề trục
trặc kỹ thuật phải bay về, nên họ nhào ra khỏi chiếc trực thăng
bắn loạn xạ vào trong xóm làng Thái Lan (như trong ciné). Thiếu
tá phi công James Villotti lên tiếng “Tôi chưa từng thấy người
Thái Lan chạy cong đít... Họ cũng nhanh đấy chứ!”
Vài giây sau mấy quân nhân LLĐB/HK mới
trấn an được biệt kích quân Việt Nam, ngưng tiếng súng. Thật may,
không một người dân Thái Lan nào bị thương. Sau khi có trực thăng
thay thế, hợp đoàn trực thăng cùng hai toán biệt kích lên đường,
nhưng khi đến khu vực chiếc phản lực EB–66 bị rơi, súng cao xạ
phòng không Bắc Việt bắn lên dữ dội làm trực thăng phải quay về.
Khi hai toán biệt kích SOG về đến phi trường Nakhon Phanom để
được đưa về Việt Nam trên chiếc C–130, tin tức về chuyện xảy ra
cho xóm làng nhỏ Thái Lan đã đến thủ đô Bangkok. Mặc dầu tòa đại
sứ Hoa Kỳ đã xin lỗi, viên chức Thái Lan vẫn cho đó là những hành
động “Cao bồi (Cowboy)”, vô kỷ luật của đám lính biệt kích SOG.
Họ rất ngại nhưng cũng cho người Hoa Kỳ tiến hành chương trình
gắn máy dò thám điện tử Circus Act (sử dụng phi trường Nakhon
Phanom).
Đơn
vị SOG đã có ít quân nhân làm việc tại phi trường Nakhon Phanom,
nhưng họ nằm trong ban có nhiệm vụ trong chương trình 34A, thả
biệt kích ra miền bắc, đồ tiếp tế... Toán biệt kích Asp nằm trong
chương trình 35, vượt biên qua Lào, Cambodia, nên một toán nhân
viên khác được SOG đưa qua Thái Lan để “lo” cho toán biệt kích
Asp. Toán “chuyên viên” gồm có: Trung sĩ Lonnie Wilhite đã từng
làm trưởng toán biệt kích New York trên Kontum, Joe Woods đã từng
ở trên Kontum, chỉ huy tổng quát là Thiếu tá Ira Snell, năm trước
chỉ huy căn cứ hành quân tiền phương Phú Bài (Huế).
Toán chuyên viên dưới quyền Thiếu tá
Snell đến Thái Lan ngày 27 tháng Ba, toán biệt kích Asp cũng được
phi cơ SOG C–130 đưa qua phi trường Nakhon Phanom, rồi cũng một
xe buýt sơn đen đưa toán biệt kích đến mấy chiếc trực thăng đậu
sẵn tại một nơi kín đáo phiá bên kia căn cứ không quân.
Trước khi hợp đoàn trực thăng cất cánh,
trưởng toán biệt kích Asp Ron Brown được trao cho dụng cụ đặt máy
nghe lén điện thoại đặt trong một vali (trông giống như vali).
Toán biệt kích cũng được khuyến cáo “Cả toán lúc nào cũng phải di
chuyển luôn luôn”, Trung sĩ Wilhite nói tiếp “và không nên ở lại
chỗ đặt máy”.
Toán biệt kích được đưa vào bãi đáp trong thung lũng Se Samou
không gặp trở ngại, và tìm ra vị trí đặt máy nhanh chóng. Thiếu
tá Snell báo cáo về bộ chỉ huy sáng hôm sau, toán biệt kích đã
tìm ra được đường giây điện thoại (của quân đội Bắc Việt) và đã
đặt máy, đang trên đường trở về (nam Việt Nam). Ông ta nhớ lại
“Khi tôi quay trở về Phú Bài, máy nghe lén điện thoại đã thâu
băng”.
Chuyến
xâm nhập gần như đã thành công, Phi đội 20 Cảm Tử lên đường đi
triệt xuất (thâu hồi) toán biệt kích. Hai Thiếu tá không quân
Villotti, Jay Oberg lái hai trực thăng CH–3 bay đến bãi đáp,
Wilhite linh cảm có chuyện trục trạc xảy ra “Tôi đã căn dặn họ,
không nên di chuyển ra xa khu vực thả xuống, nhưng họ không nghe,
chọn điạ điểm khác”.
Việc thay đổi này chứng tỏ “tai hại”,
khi trực thăng do phi công Oberg lái thả cuộn thang dây xuống,
tiếng súng lính Bắc Việt nổ vang từ dưới đất. Mấy biệt kích quân
Việt Nam đã leo lên lưng chừng một cách khó khăn vì phải mang
theo súng đạn, dụng cụ nặng trĩu trong ba lô, trong khi ba quân
nhân LLĐB/HK đứng ở dưới giữ cho thang dây khỏi đưa qua đưa lại,
do hơi gió từ dưới bụng trực thăng thổi ra. Từng phút hồi hộp
trôi qua, sáu biệt kích Việt Nam chui lọt vào bên trong, người
thứ bảy đã đến lưng chừng, đúng lúc địch quân bắn lên chiếc trực
thăng CH–3.
Thiếu tá Oberg bình tĩnh giữ chiếc trực thăng đứng yên cho Trung
sĩ Boyer leo lên thang dây. Từ bên trong trực thăng, Wilhite
chứng kiến những giây phút căng thẳng, lính Bắc Việt đã truy kích
đến gần, bắt buộc chiếc trực thăng bắt đầu bay lên cao. “Khi
chúng tôi lên được cao độ khoảng 1500 bộ” Wilhite nói tiếp “một
bậc thăng gãy làm cho Boyer rơi xuống”.
Hai phi công bay vòng vòng trên bầu
trời, họ có thể nhìn thấy hai quân nhân Hoa Kỳ vẫn còn ở dưới
đất, và tiếng súng nổ vang nên cả hai phải quay về căn cứ không
quân Nakhon Phanom. Khi Thiếu tá Oberg đáp xuống, biệt kích quân
Việt Nam (người thứ bảy) vẫn còn đu trên chiếc thang dây.
Nhận được báo cáo, đơn vị SOG thảo kế
hoạch cấp cứu ba quân nhân biệt kích Hoa Kỳ trong toán Asp bị kẹt
lại. Cùng lúc đó, có sự trùng hợp, một phản lực F–111 (lần đầu
tiên tham chiến thả bom miền bắc) của Không Lực Hoa Kỳ bị rơi
ngoài bắc, và có dấu hiệu phi công sống sót. Toán biệt kích Boa,
một toán biệt kích vẫn còn giữ đội hình 12 người từ căn cứ hành
quân 4 (FOB–4, Ngũ Hành Sơn) được cấp tốc đưa đến phi trường
Nakhon Phanom. Không may thời tiết nơi miền bắc Việt Nam lúc đó
xấu, làm chuyến cấp cứu phi công F–111 không thực hiện được. Khi
trời quang đãng, viên phi công đã bị bắt.
Những đám mây đen dầy đặc đó cũng cản
trở việc cứu ba quân nhân LLĐB/HK. Nhưng toán biệt kích Boa đã có
mặt ở Thái Lan nên cấp chỉ huy SOG quyết định hôm 1 tháng Tư đưa
toán Boa vào Tchepone tìm kiếm ba quân nhân Hoa Kỳ trong toán
Asp. Trưởng toán biệt kích Boa là Trung sĩ Charles “Chuck”
Feller, anh ta là người có “ân tình” với toán Asp “Khi tôi mới
đến Việt Nam tháng Mười Một (1967) trước đó, Al Boyer đã đi cùng
với tôi nhiều chuyến trong toán Boa”. Bây giờ Feller đi tìm xác
Boyer để đem về.
Khi đặt chân xuống phi trường Nakhon
Phanom, Feller linh cảm “có vấn đề”, có điều gì không đúng. Trong
những chuyến xâm nhập từ căn cứ hành quân tiền phương ở miền nam
Việt Nam, họ thường được trực thăng võ trang bay theo yểm trợ
(hợp đoàn trực thăng chuyên đi thả biệt kích xâm nhập). Hỏa lực
trực thăng của Phi đội 20 Cảm Tử chỉ có khẩu đại liên nơi cửa...
và chiếc trực thăng chở toán biệt kích vẫn còn thang dây bị gãy
bậc thang, chưa được thay. Feller yêu cầu phải thay chiếc thang
dây ngay lập tức.
Trong buổi sáng hôm đó, toán biệt kích
Boa được trực thăng Ch–3 đưa vào Tchepone không gặp trở ngại.
Quân biệt kích tìm kiếm trong sáu (6) tiếng đồng hồ vẫn không
thấy dấu vết ba quân nhân LLĐB/HK. Trên đường rút ra (điểm để
trực thăng đón về, có thể là bãi đáp nhỏ, hoặc thang dây, tùy
theo mức độ khẩn cấp) họ bị tấn công và cũng như trường hợp toán
Asp, các biệt kích quân toán Boa phải sử dụng thang dây để triệt
xuất. Tất cả mọi người “móc” (dùng một loại khóa an toàn, lính
biệt kích thường đeo ở dây mang đạn) vào thang dây rồi trực thăng
cất cánh nhanh chóng. Lần này cả ba quân nhân Hoa Kỳ đều về đến
căn cứ an toàn, duy nhất một biệt kích quân Việt Nam tên Bùi, xạ
thủ súng phóng lựu đạn M–79, móc khóa không đúng hay sao đó, bị
rơi xuống lúc trực thăng đã lên đến cao độ 6000 bộ. Khi trở về
căn cứ hành quân tiền phương 4 (FOB–4), thiếu quân nhân LLĐB/HK,
các binh sĩ Việt Nam được chuyển qua các toán biệt kích khác, tên
toán biệt kích Asp “chìm” mất trong danh sách các toán biệt kích.
Mùa xuân năm 1968, đơn vị SOG soạn thảo
kế hoạch cho các loại hành quân ngoại lệ khác, sử dụng lính Bắc
Việt đào ngũ. Một trong những hành quân này có mật danh
“Thundercloud”, gồm có toán ba người xâm nhập Lào bắt cóc (bắt
sống) tù binh lính chính quy Bắc Việt.
Đại úy Warren “Bud” Williams, một cấp
chỉ huy trong chương trình Thundercloud trang bị một toán biệt
kích của ông ta ống chích chứa morphine để tiêm vào người tù binh
nhưng toán biệt kích trở về không thành công. Trung tá Larry
Trapp cho biết thêm “Một lần khác họ định đem về một nữ cán binh
Bắc Việt, nhưng bị cào cho xước mặt”. Đến cuối tháng bảy sau bốn
tháng hoạt động, cấp chỉ huy SOG nhận định, toán biệt kích ba
người không có hiệu quả, không đủ sức “đấm” mạnh, và thiếu sự chỉ
huy (trưởng toán) của quân nhân LLĐB/HK. Họ quyết định trong
tháng Chín 1968, chấm dứt chương trình Thundercloud, gom các biệt
kích thành lập toán Asp mới.
Trưởng toán biệt kích Asp “hồi sinh” là
Trung sĩ Mel Westerfield, toán phó là Trung sĩ Larry Trimble,
trước đó hai tháng đã từng làm trưởng toán biệt kích Rattler,
ngoài ra có thêm một quân nhân Việt Nam làm thông ngôn Nguyễn Văn
Việt, biệt danh “Bobby”.
Toán Asp mới được thành lập đặc biệt từ
lính đào ngũ Bắc Việt trong chương trình Thundercloud, nên được
trao nhiệm vụ “bắt cóc” một lần nữa. Nguồn tin tình báo cho biết
một viên Đại tá quân đội Bắc Việt sống trong một ngôi làng bên
kia biên giới giáp tỉnh Kontum. Toán biệt kích Asp với hai quân
nhân LLĐB/HK, Bobby, và bốn biệt kích Thundercloud được đưa lên
căn cứ SOG trên Kontum (B15) huấn luyện, nhận diện vị Đại tá Bắc
Việt. Họ cũng đem theo thùng đồ “Thundercloud” bên trong chứa
quân phục chính quy Bắc Việt, tiểu liên AK–47 cho mỗi quân nhân
trong toán.
Như kế hoạch vạch sẵn, toán biệt kích Asp được trực thăng H–34
Phi đoàn 219 Kingbee VNCH đưa đi xâm nhập vào nước Lào, sau đó họ
sẽ phải lội rừng thêm hai ngày để đến mục tiêu. Toán biệt kích
đến bìa ngôi làng vào lúc xế chiều, bắt đầu thám sát trạm đóng
quân (ngôi làng) của địch bằng ống nhòm (kính viễn vọng) từ một
khoảng cách an toàn. Toán biệt kích dự định sẽ xâm nhập bí mật
vào làng, đến đúng căn nhà vị Đại tá Bắc Việt đang ở, tiêm
morphine cho ông ta mê rồi khiêng đi, nhưng ngôi làng rất yên
tĩnh dường như bị bỏ trống. Toán biệt kích đợi đến khi trời sắp
tối, di chuyển vào mục tiêu. Trước khi họ đến những căn nhà (như
những căn chòi phủ rơm rạ), một lính Bắc Việt đã phát giác nổ
súng, và lính Bắc Việt từ trong các căn nhà chạy ra.
Toán biệt kích Asp đang ở trong tình
trạng nguy khốn, bị lính Bắc Việt đang kéo ra bao vây. Nhận định
tình hình, Trung sĩ Westerfield trưởng toán muốn ở lại “bám trụ”
trong căn nhà chiến đấu, Trimble không đồng ý “Mình phải chạy ra
khỏi nơi này”, anh ta nhớ lại “Tôi nói với họ (các biệt kích
quân) di chuyển thật nhanh lên một ngọn đồi gần đó trốn trong khi
trời tối”.
Chiến thuật “chạy” hiệu quả. Lính Bắc Việt lục soát trên sườn đồi
cả đêm, thỉnh thoảng bắn “bâng quơ” vào các điểm tình nghi có
quân biệt kích lẩn trốn. Qua đêm toán biệt kích Asp vô sự, sáng
sớm hôm sau họ báo cáo, xin được trực thăng vào “bốc” đem về.
Trực thăng cấp cứu đến thả những sợ dây cấp cứu (Stabo) cho biệt
kích “ngồi vào” và khoảng 50 phút sau, toán biệt kích về đến Dak
To (căn cứ hành quân tiền phương của SOG). Sau chuyến bắt cóc
thất bại, Westerfield mãn nhiệm kỳ về nước, Trung sĩ Trible được
đề cử lên làm trưởng toán, anh ta rất xứng đáng...
Qua ba phần tư (3/4) năm 1969, toán
biệt kích Asp hành quân xâm nhập 12 chuyến, làm nhiệm vụ đặt máy
nghe lén hoặc dò thám lấy tin tức thành công, trở về bình an vô
sự. “Vì sự cấu tạo của toán biệt kích (lính đào ngũ Bắc Việt)”,
toán phó (mới) Gene Pugh nhớ lại “Chúng tôi được trao nhiệm vụ xa
nhất, cực bắc vùng hoạt động (của đơn vị SOG)”.
Đến mùa thu năm 1969, các quân nhân
LLĐB/HK trong toán Asp lần lượt về nước (mãn nhiệm kỳ), các biệt
kích quân Việt Nam thay đổi, toán Asp gần như “bất khiển dụng”
một thời gian ngắn. Sau đó Đại úy George “Gary” Robb được thuyên
chuyển đến làm trưởng toán biệt kích Asp.
Ngày 26 tháng Mười, Đại úy Robb được
“rửa tội” bằng hỏa lực của địch, khi toán Asp được lệnh vượt biên
sang đất Lào đi cấp cứu. Bốn ngày trước đó, một trung đội Khai
Thác (Tiếp Ứng – Hornet) đơn vị SOG hành quân bên Lào (thường
được trao nhiệm vụ phá hủy binh trạm của địch), lúc được hợp đoàn
trực thăng đón về, lính Bắc Việt bắn rơi chiếc trực thăng cuối
cùng chở viên sĩ quan trung đội trưởng. Toán biệt kích đang hoạt
động gần nhất là toán Idaho đã được lệnh di chuyển đêm đến vị trí
chiếc trực thăng bị rơi, bố trí an ninh, băng bó vết thương cho
các quân nhân bị thương. Toán biệt kích Asp đến vào sáng sớm hôm
sau tiếp tay với toán Idaho, di tản các quân nhân bị thương ra
khỏi khu vực.
Trong thời gian cấp cứu, toán biệt kích Asp vẫn chưa được bổ xung
thêm hai quân nhân LLĐB/HK nên Đại úy Robb kiêm luôn chức vụ toán
phó và hiệu thính viên (đeo máy truyền tin liên lạc). Điều này
không làm sờn lòng viên đại úy trẻ “Từ lúc ban đầu tôi thích chỉ
mỗi mình tôi cùng các biệt kích quân Việt Nam”. Lúc đó toán Asp
vẫn còn bốn quân nhân Thundercloud nguyên thủy, sau đó được thêm
hai người nữa trong đó có một lính Bắc Việt đào ngũ. “Họ mê tín
dị đoan, thích con số chẵn”, Robb nói “Nghiã là tôi chỉ đem theo
ba người lính biệt kích Việt Nam, tôi nữa là bốn”. Cũng như năm
ngoái, toán biệt kích Asp mặc quân phục lính Bắc Việt đem theo
tiểu liên AK–47.
Trong vòng một năm, toán biệt kích vẫn
may mắn, chỉ bị thương một người. Mỗi chuyến xâm nhập, trung bình
toán Asp hoạt động trong lòng địch được bốn ngày (có nhiều toán
vừa xuống đã bị lộ, phải triệt xuất). Cũng trong cùng thời gian,
hệ thống phòng không Bắc Việt bảo vệ đường mòn HCM được ghi nhận
gia tăng kỷ lục. Để khen thưởng, toán biệt kích Asp được chọn
trong tháng Chín năm 1970, là toán biệt kích đầu tiên xâm nhập
nước Lào bằng phương tiện nhảy dù. Mặc dầu Đại úy Robb chỉ thích
là một quân nhân Hoa Kỳ duy nhất trong toán biệt kích, chuyến
nhảy dù xâm nhập này có thêm Trung sĩ Robert Ramsey từ Đà Nẵng và
hai quân nhân Việt Nam (bốn người).
Ngày 8 tháng Chín, toán biệt kích Asp
lên phi cơ C–130. Nhiệm vụ của họ thám sát khu vực phiá tây vùng
phi quân sự chia đôi bắc, nam Việt Nam. Khu vưc này nổi tiếng từ
lâu có sự hiện diện đông đảo quân đội Bắc Việt và rất nguy hiểm
xâm nhập bằng trực thăng. Các cấp chỉ huy SOG hy vọng việc thả dù
với cao độ thấp, sẽ an toàn hơn cho toán Asp.
Khi chiếc C–130 đến không phận mục tiêu
khoảng 4 giờ chiều, từ cao độ 400 bộ, toán biệt kích Asp (chỉ có
4 người 2 Hoa Kỳ, 2 Việt Nam) nhảy dù ra đáp xuống trên đầu ngọn
cây vô sự. Khi toán biệt kích gom lại cùng với đồ trang bị, họ
biết có chuyện chẳng lành. “Chúng tôi nhảy dù xuống gần hơn (chưa
đến mục tiêu) rồi đáp gần một căn cứ đóng quân của địch” Đại úy
Robb nhớ lại “Họ (lính Bắc Việt) càn quét khu rừng tìm dấu vết
chúng tôi từ lúc trời sáng”. Toán biệt kích phản ứng nhanh chóng,
xin phi cơ (phản lực Hoa Kỳ) oanh kích dọc theo một rặng núi,
đồng thời yêu cầu trực thăng triệt xuất. Khoảng 10 giờ sáng, một
trực thăng Lục Quân UH–1 phát xuất từ Quảng Trị bay đến, “câu”
bốn biệt kích quân ra về an toàn.
Hai tháng Sau, Đại úy Robb rời Đà Nẵng,
ba trong bốn quân nhân Thundercloud nguyên thủy vẫn còn trong
toán, nhưng họ trở nên “lạnh cẳng” sau hai năm trong toán Asp.
Sau đó họ xin “giải ngũ”, toán biệt kích Asp lại ra khỏi danh
sách.
Đến cuối
năm 1970, sáu người dân tộc thiểu số Thái tuyển mộ ở Đà Nẵng.
Người Thái sinh sống trong vùng tây bắc miền Bắc, có nhiều người
di cư qua Lào sinh sống sau chiến tranh Đông Dương với người
Pháp. Một trong số sáu người là Lò Văn An đã từng gia nhập đơn vị
SOG năm 1966, tuyển mộ từ Vientiane (thủ đô Vạn Tượng, Lào) nhảy
dù xuống miền bắc trong chương trình 34A. Trong năm 1968, SOG
chấm dứt chương trình 34A (nằm vùng dài hạn nơi miền bắc Việt
Nam), chuyển sang chương trình xâm nhập ngắn hạn do các toán biệt
kích Strata đảm trách (34B). Một trong những toán Strata đầu tiên
xâm nhập miền bắc vị phân tán, trưởng toán là cha của Lò Văn An
bị bắt, riêng Lò Văn An được trực thăng cứu thoát. Sau chuyến xâm
nhập đó, Lò Văn An ra khỏi chương trình Strata, đến cuối năm 1970
anh ta cùng với năm người Thái khác trở lại đơn vị SOG, được bổ
sung vào toán biệt kích Asp mới được xây dựng lại.
Toán biệt kích Asp mới có Đại úy Lucius
Delk vừa làm trưởng toán, vừa chỉ huy các toán biệt kích khác ở
Đà Nẵng. Nhiều sĩ quan cùng cỡ đặt câu hỏi, sao có chuyện này!
Ông Bố vợ của Delk, Đại tá Dan Schungel, là người chỉ huy các
cuộc hành quân vượt biên (Lào Miên, chương trình 35) trong đơn vị
SOG. Đến đầu năm 1971, Đại Tá Schungel thuyên chuyển đi đơn vị
khác, Đại úy Delk cũng ra đi.
Đại úy Delk chỉ ở với toán Asp một thời
gian ngắn, trưởng toán mới của toán biệt kích Asp là Trung sĩ
Klaus Bingham. Đó là chuyến tour thứ hai của Bingham ở Đà Nẵng,
trước đó năm 1968, anh ta phục vụ trong căn cứ hành quân 4. Toán
Asp có thêm hai Trung sĩ khác là James Luttrell và Lewis Walton.
Tháng Hai năm 1971 là thời gian có sự
thay đổi trong các hoạt động của đơn vị SOG ở Đà Nẵng. Trong
tháng đó, quân đội VNCH mở cuộc hành quân lớn về hướng tây (Lam
Sơn 719) vào Tchepone trên đất Lào để cắt đứt hệ thống đường mòn
HCM, phá hủy các binh trạm, kho tiếp vận của quân đội Bắc Việt ở
Lào. Ngoài vấn đề cung cấp không trợ, trực thăng đổ quân, Hoa Kỳ
đứng ngoài cuộc hành quân, không đưa người qua nước Lào (tất cả
cố vấn trong các đơn vị VNCH được lệnh ở lại). Một trong những lý
do người Hoa Kỳ muốn trắc nghiệm quân đội VNCH tự lực mở các cuộc
hành quân cấp lớn (quân đoàn) và để chính quyền Tổng Thống Nixon
đưa quân đội Hoa Kỳ về nước.
Theo lệnh chính sách này, đơn vị SOG
ngưng các chuyến hành quân xâm nhập vào đất Lào ngoại trừ việc
cứu phi công bị bắn rơi. Các toán biệt kích SOG chỉ hoạt động
trong miền nam Việt Nam, vùng phi quân sự. Đến tháng Tư, sự thay
đổi vùng hoạt động đưa đến việc cho các toán biệt kích trở lại
đội hình nguyên thủy 12 người, vì cần hỏa lực hơn giữ yếu tố bí
mật.
Mùa xuân
1971, đơn vị SOG tập trung vào việc phát triển đường sá của quân
đội Bắc Việt (đường mòn HCM). Công binh Bắc Việt đã xây thêm, kéo
dài con đường từ thung lũng A Shau về hướng nam đến thung lũng A
Vương tỉnh Quảng Nam. Toán biệt kích Asp được trao nhiệm vụ “điều
tra” việc xây dựng đường sá này mà toán biệt kích đã làm nhiều
chuyến tương tự từ hai tháng trước.
Sáng sớm ngày 3 tháng Năm, toán biệt
kích Asp gồm có 3 LLĐB/HK, 6 biệt kích quân người Thái xâm nhập
vào sườn núi hướng tây ngọn Bol Kin, cách biên giới Lào 15 cây
số. Ngọn núi Bol Kin cao thứ hai trong điạ phận tỉnh Quảng Nam,
khống chế thung lũng A Vương từ hướng nam.
Mười phút sau khi xuống bãi đáp, toán
Asp ra dấu hiệu an toàn qua máy truyền tin. Ngày hôm sau, một phi
cơ điều không tiền tuyến FAC lên bao vùng khu vực toán biệt kích
Asp hoạt động nhưng không nhận được tín hiệu nào phát ra từ máy
truyền tin, hoặc từ dưới đất (gương phản chiếu...)
Ngày 5 tháng Năm, mấy phi cơ (FAC, trực
thăng...) bay trở lại tìm kiếm dấu vết toán biệt kích Asp. Hai
phi công báo cáo trông thấy gương phản chiếu, pano (vải phát ra
mầu cam, hoặc xanh chói sáng rất dễ nhận ra từ trên cao) cách vị
trí toán biệt kích xâm nhập khoảng 50 thước. Ngay sau đó, hai
dáng người trong quân phục mầu xanh đậm được nhìn thấy gần tấm
pano. Quay trở về Đà Nẵng vào buổi trưa, chiếc FAC hộ tống một
trực thăng khác chở toán biệt kích cấp cứu SOG bay đến chỗ nhìn
thấy tấm pano. Khi họ đến, trời đã về chiều, trời u ám sắp đổ một
cơn mưa lớn, việc cứu toán biệt kích Asp phải ngừng lại, chỉ còn
chiếc FAC bay bao vùng đến 5 giờ chiều.
Ngày hôm sau, một tận mưa bão lớn hơn
nữa làm ngưng tất cả mọi việc. Đến ngày 7 tháng Năm, đơn vị SOG
cố gắng đưa toán cấp cứu lên đường. Mười trực thăng được sử dụng
để đưa (có thể cả trung đội Khai Thác Hornet) vào gần vị trí toán
biệt kích Asp xâm nhập từ mấy hôm trước. Khi chiếc trực thăng dẫn
đầu bay gần đến bãi đáp, súng đại liên quân Bắc Việt bố trí trên
các sườn đồi bắn xối xả vào hợp đoàn trực thăng. Ba trực thăng đổ
quân, hai trong số bốn trực thăng võ trang UH–1 Cobra trúng đạn
hư hại, hợp đoàn trực thăng phải quay về Đà Nẵng.
Thay thế các trực thăng bị hư hại, đơn
vị SOG cố gắng “vào” thêm một lần nữa trong ngày. Lần này, bãi đổ
quân được chọn nơi khác có cao độ cao hơn bãi đáp cũ 600 thước.
Để tránh đạn phòng không của địch, các phi công bay từ hướng khác
vào, tránh những sườn núi có đặt súng. Lúc đó, trời sắp mưa làm
cho chuyến hành quân cấp cứu bị ngừng lại.
Một loạt mưa gió tiếp theo làm việc cứu
toán biệt kích Asp đình lại. Đến ngày 11 tháng Năm, thời tiết trở
nên tốt, và đơn vị SOG không bỏ rơi đồng đội. Hai toán biệt kích
SOG mỗi toán 12 người lên đường. Toán thứ nhất Bushmaster, trưởng
toán là Eldon Bargewell, đã phục vụ tour thứ hai. Toán thứ hai
Connecticut có trưởng toán Trung sĩ Andre Smith.
Lúc đó, các quân nhân LLĐB/HK trong
toán Asp đã được chính thức báo cáo mất tích, tuy nhiên cấp chỉ
huy đơn vị SOG vẫn hy vọng toán biệt kích vẫn còn đang lẩn trốn
trong một bụi cây nào đó, trong rừng núi. Hai toán biệt kích vào
tìm kiếm hy vọng tìm được dấu vết toán Asp để lại như ba lô, vật
dụng cá nhân... hoặc bắt sống một địch quân nào đó, để biết rõ số
phận các biệt kích quân trong toán Asp.
Hai toán biệt kích được đưa vào cách xa
vị trí thả toán Asp để an toàn, họ lần mò vào khu vực dò thám.
Sau hai ngày lục soát, họ tìm thấy một phần tấm pano bị rách nơi
một vị trí trống trải có thể làm bãi đáp cho trực thăng thả/bốc
toán biệt kích. Trưởng toán Bushmaster Bargewell lên tiếng báo
động “Coi chừng bẫy của địch!” Cả hai toán biệt kích “de” (lùi)
lại, đúng lúc tiếng súng lính Bắc Việt bắn tới từ xa. Cả hai toán
biệt kích vừa chạy giữ khoảng cách đối với quân truy kích Bắc
Việt, vừa gọi trực thăng cấp cứu. Cả hai đều được trực thăng đưa
về căn cứ an toàn.
Đó là lần chót đơn vị SOG cố gắng tìm
kiếm các quân nhân mất tích toán biệt kích Asp. Vài tháng sau,
một tù binh Bắc Việt khai, toán biệt kích Asp đi vào một ngôi
làng (đã bị quân đội Bắc Việt chiếm đóng) và bị “thanh toán”.
Tên toán biệt kích Asp trồi lên một lần
cuối trong tháng Tám năm 1971. Toán được thành lập lại với hai
Trung sĩ Thompson và Queen. Trong thời gian đó, việc rút quân đội
Hoa Kỳ về nước đang tiến hành, sự hiện diện quân nhân LLĐB/HK
trong đơn vị SOG cũng giảm đi nhiều, toán biệt kích Asp bị giải
tán trước khi nhận lệnh hành quân. Đơn vị SOG chấm dứt nhiệm vụ
trong tháng Tư năm 1972.
Câu chuyện về toán biệt kích Asp có
nhiều uẩn khúc, về định mệnh của các biệt kích quân trong toán.
Về việc mất ba quân nhân Hoa Kỳ lần đầu tiên năm 1968, toán tìm
kiếm, thâu hồi quân nhân (Hoa Kỳ) mất tích trong trận chiến tranh
Việt Nam, đã tìm kiếm khu vực nơi hướng bắc Tchepone năm 1992,
khi được nghe dân điạ phương nói phong phanh, ba người Hoa Kỳ
chết được chôn cất trong khu vực. Một người dân điạ phương tình
nguyện đưa toán tìm kiếm đến vị trí chôn cất, nhưng khu vực bị
bom tàn phá nặng làm cho người dẫn đường không nhận diện được vị
trí. Toán tìm kiếm đào xới nhiều nơi nhưng không tìm thấy xương
cốt, vật dụng tùy thân của ba quân nhân Hoa Kỳ.
Về chuyện mất tích năm 1971, trong
tháng Mười năm 1991, một người dân sống trong khu vực trả lời
nhân viên phòng tìm kiếm thâu hồi quân nhân Hoa Kỳ mất tích, lúc
đó có một trận đánh giữa VC (đơn vị điạ phương) và toán biệt kích
(Asp), trong vòng hai ngày, kết quả cả sáu người lính biệt kích
đều bị giết chết.
Trong tháng Năm 1992, một người dân điạ
phương khác nói rằng, cả ba quân nhân Hoa Kỳ đều tử trận và họ
không được chôn cất. Một cuộc đào xới trong khu vực năm 1993, chỉ
tìm thấy vài khuy áo và một con dao găm, chưa đủ bằng chứng về
toán biệt kích Asp.
Cũng trong năm đó, một biệt kích quân
duy nhất Lò Văn An trong toán Asp sống sót chuyến xâm nhập tháng
Năm 1971. Anh ta kể lại, gần giống như nhân chứng trước đó, toán
biệt kích đi vào trong làng và bị quân điạ phương VC bao vây. Bị
ra lệnh đầu hàng, ba quân nhân LLĐB/HK không chịu, chống lại,
chiến đấu cho đến khi hết đạn. Trận đánh làm chết vài VC nên cả
ba quân nhân Hoa Kỳ, năm biệt kích Thái bị hành quyết. Lò Văn An
là người duy nhất sống sót, chạy sang Lào, anh ta hiện sống bên
Pháp.
Người dịch: vđh
Nguồn:
https://hoinkt.blogspot.com/2022/10/blog-post.html
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Edge hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by HL Phạm Hòa chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, October 27, 2022
Liên lạc:
E-mail: NhaKyThuat@yahoo.com
Post Office Box 1982
Tustin, CA 92780-5112 U.S.A.
Trở lại đầu trang