Tổng Hội Nha Kỹ Thuật
Tản
mạn Thời chinh chiến
Chủ đề:
Phi Đoàn 219 Kingbee
Tác giả:
Phạm Minh Mẫn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
“TÔI NHỚ ÐẾN TÊN CÁC ANH VÀ CÁC BẠN
219. (NHỮNG NGƯỜI CÒN SỐNG VÀ NHỮNG ANH EM ÐÃ ANH DŨNG HY SINH). CÁC
ANH VÀ CÁC BẠN LUÔN SỐNG MÃI TRONG TIM TÔI, NHỮNG VUI, BUỒN, NHỮNG
ÐAU THƯƠNG VÀ MẤT MÁT, MÀ TÔI LUÔN NHỚ, KHẮC GHI TRONG LÒNG, KHÔNG
BAO GIỜ QUÊN... KINGBEE 219 BẤT TỬ MÃI TRONG TÔI.”
NHÂN VẬT
Tôi, Phạm Minh Mẫn, về Phi Ðoàn vào khoảng cuối
tháng 5 năm 1968. Tình hình nhân viên Phi Ðoàn lúc bấy giờ, tôi được
nghe nhắc đến ông Hồ Bảo Ðịnh là Chỉ huy trưởng Phi Ðoàn 219 đầu
tiên. Kế đến các anh Nguyễn Phi Hùng (Râu kẽm), Lưu Văn Trâm,
Tô
Phùng Ðạt, Thoan, Thái, Hiệp, Lê Hồng Lĩnh, Châu, Nguyễn Văn Mai, và
chị văn thư tên Hải.
Theo lời kể lại của Anh Ðỗ Văn Hiếu thì
“Lịch sử trước khi thành lập PÐ219 là BIỆT ÐỘI DELTA khởi đầu từ năm
1964 do nhu cầu chiến trường và thoạt đầu công việc này do các
PHЖ211 [Phi hành đoàn PĐ211] chịu trách nhiệm. Khoảng mấy tháng sau
thì BTL–KQ quyết định chọn lựa các PHÐ tình nguyện thuộc hai PÐ211 &
213. Trưởng biệt đội đầu tiên là anh Hồ Bảo Ðịnh. Khi tôi (Ðỗ Văn
Hiếu), anh Nguyễn Phi Hùng và Mevo Nguyễn Quang Hiểu đến với BÐ
[Biệt Đội] năm 1965 thì Trưởng BÐ là anh Trương Văn Vinh, vài tháng
sau thì anh Vinh chuyển ra Đà Nẵng (PÐ213) Anh Huỳnh Văn Vui lên làm
Trưởng BÐ. Biệt Ðội gồm có: Huỳnh Văn Vui, Nguyễn Phi Hùng, Trần Hữu
Khôi, Ðinh Hữu Hiệp, Châu Lương Cang, Tống Phước Hảo, Nguyễn Văn
Mành, Phan Văn Khiết, Trương Phong Trắng và Ðỗ Văn Hiếu.
Lúc
này Anh Hồ Bảo Ðịnh & Trần Văn Luân cùng một số Anh Em khác hoạt
động ở Đà Nẵng, tất cả đều trực thuộc BIỆT ÐOÀN 83 do Thiếu tá
Nguyễn Cao Kỳ làm Chỉ huy trưởng; nói như thế nhưng thực tế ban
đầu ông Lưu Kim Cương là người điều hành và khi ông ta sang chỉ
huy Không Ðoàn Vận Tải (Không Ðoàn 33 chiến thuật)
{Sư Ðoàn 5 KQ sau này}
thì Anh Nguyễn Ngọc Khoa (Khoa Ðen)
lên thay thế. Sau trận PLEIME đầu năm 1966 thì BÐ giao phần trách
nhiệm lại cho các Ðội TT
[Trực Thăng]
của Mỹ và trở ra Đà Nẵng sáp nhập với BÐ ở đây và thành lập Phi
Ðoàn 219, Đại úy Hồ Bảo Ðịnh làm CHT
[Chỉ Huy Trưởng]”.
Phi Ðoàn 219 làm việc cho Green Berets của Lực Lượng Ðặc Biệt
Hoa Kỳ theo chương trình OP–35 của MACV–SOG do hai ông Lieutenant
Colonel [Trung tá] WARREN và Colonel
[Đại tá] BLACK BURN làm chỉ
huy.
Phi Ðoàn 219 tháng 05 năm 1968 gồm có:
Chỉ huy
trưởng thứ nhì: Thiếu tá Ðặng Văn Phước,
Chỉ huy phó:
Đại úy Trần
Văn Luân,
Trưởng Phòng Hành Quân:
Đại úy Nguyễn Văn Nghĩa,
Sĩ
quan Huấn luyện Phi Đoàn:
Đại úy Nguyễn Hưu Lộc,
Đại úy Tống
Phước Hảo,
Đại úy Ðinh Công Toản.
Cố Vấn Quân Sự Hoa Kỳ:
Major [Thiếu tá] Crossman (1968–1969),
Major
Hennessy(1969–1970),
Major Helm (1970–1971),
Major Dear
(1971–1972).
Sĩ Quan tài chánh MACV–SOG:
Major Black
Bird,
Hạ sĩ Quan liên lạc MACV–SOG:
Sergeant Amstrong,
Sergeant Jonshon.
Văn thư Phi Ðoàn:
Trung sĩ Nguyễn
Ngọc Giao,
B2 [Binh nhì] Trung,
Trung sĩ Ðỗ Viết Châu (1970).
Vũ khí Phi Ðoàn: Trung sĩ Mùi. & ...?
Sĩ Quan Trưởng Phi
Cơ Flight Leader: Các Anh Ðỗ Văn Hiếu, Châu Lương Cang, Ðinh Quốc
Thinh, Bùi Văn Be, Phan Văn Thanh, Huỳnh Văn Phố, Nguyễn Quý An,
Nguyễn Văn Tưởng,Trần Văn Phước.
Trưởng Phi Cơ và Hoa tiêu
chánh: Nguyễn Tấn Trọng (ông già Noel),
Ngô Viết Vượng, Ðặng Văn
Cung, Tôn Thất Sinh, Nguyễn Hiền Nhơn, Phạm Vinh, Nguyễn Thanh Liêm,
Ðinh Thế Khúc, Nguyễn văn Minh, Nguyễn Tấn Hiền, Trần Quang Ðệ,
Nguyễn Minh Khiết (lúc này không còn bay nữa),
Vũ Ðức Thắng , Nguyễn
Du, Trần Ngọc Thạnh, Phạm Ngọc Xuân.
Hoa tiêu Phó: Huỳnh Xuân
Thu, Phạm Văn Quý, Trần Văn Long, Trần Quang Trọng, Phạm Công Khanh,
Bạch Mạnh Hùng, Hướng Văn Năm, Phạm Văn Thận,
Vũ Tùng, Phạm Ngọc
Sâm, Huỳnh Văn Du, Ðinh Văn Huê, Chung Tử Bửu.
Mevo Phi Ðoàn:
Chuẩn úy Phan Văn Tưởng, Chuẩn úy Nguyễn Quang Hiểu, Chuẩn úy Hồ Văn
nguyên, Phan Ngọc Hưởng, Nguyễn Văn Thanh,
Phạm Văn Truật, Hà Khắc
Vững, Phạm Ngọc Khuê, Lê Văn Xê (lúc này không còn bay nữa), Nguyễn
Thanh Cần, Nguyễn Kim Sơn, Nguyễn Văn Công,
Nguyễn Văn Em, Lê Phước
Quý, Ðổng Minh Sanh, Nguyễn Văn nghĩa (Già),
Nguyễn Văn Thân, Nguyễn
Văn Lợi.
Mevo bổ sung cuối tháng 5 năm 1968: Phạm Minh Mẫn,
Trần Tuấn Năng, Trần Mạnh Nghiêm, Nguyễn Văn Phương, Phạm Văn Thịnh.
Tháng 8 năm 1968, sĩ quan về bổ sung: Vương Văn Ngọ (213 qua),
Nguyễn Thanh Giang (215 ra),
Phạm Văn trung (Cần Thơ ra), và Trung
úy Nguyễn Kim Huờn (CT ra). Có 1 Mevo ở PĐ215 ra là Trung sĩ Toản và
một tốp Pilot [Hoa tiêu] mới về cuối năm 1968 là: Nguyễn Hải Hoàn,
Dương Văn Khải, Lê Long Sơn (Sơn đen).
Ðầu năm 1969 tốp thứ
hai mới về là: Nguyễn Văn Phước, Hứa Văn Trung,
Thái Anh Kiệt, Phạm
Sĩ Tài, Nguyễn Hải Lộc, Nguyễn Ngọc Ân, Nguyễn Quang Anh,
Thái, Hóa,
Ðạt, Nguyễn Thế Cừ, Nguyễn Văn Vang; và cùng thời gian đó nhóm sĩ
quan Khóa 21 Trường Võ Bị Ðà Lạt: Nguyễn Thái Dũng, Nguyễn Văn Yên,
Hà Tôn, Phan Xuân Lễ, Nguyễn Côn, Lê Hữu Khiêm, Ðỗ Văn Chấn, Trần
Ðức Viết, Lê Văn Sang.
Tháng 12 năm 1968 về thêm: Võ Thành
Long (Long con), Dương Ngọc Như. Mevo về thêm gồm: Phạm Xuân Hùng,
Hồ Ðắc Bình, Nguyễn Văn Nhất, Nguyễn Văn Bé, Nguyễn Minh Chấp,
Trần
Văn Ðức. Mevo Thiếu úy Nguyễn Văn Mai (215 trở về lại PÐ219).
Tháng 10 năm 1969 về thêm: Lâm Hồng Son,
Lê Thế Hùng (Ðế), Trần
Văn Sua, Nguyễn Minh Ðường. MEVO về thêm tháng 4 năm 1969 Trịnh Xuân
Kha, Lê Trung Nguyên, Trần Văn Liên, Lê Văn Tấn, Trần Khánh; và Cần
Thơ ra có Thượng sĩ Võ Văn Hồng.
Tháng 8 năm 1970 Pilot mới
về: Ðỗ Kim Long, Ngô Văn Thành, Lê Tiến Lang (Tony Bóng), Bùi Tá
Khánh, Phan Thành Lập, Nguyễn Xuân Bách, Thọ (râu),
Huỳnh Tấn Phước
(Mực).
Tháng 12 năm 1970:
Quách Ngọc Thao, Võ Văn On, Lâm
Quang Long (Cồ), Ngô Tấn Long (Long đầu bạc), Lại Công Ân.
Tháng 1 và 2 năm 1971, Pilot lại bổ sung: Trần Hưng Mạnh, Nguyễn Văn
Biên, Ðào Huy Tùng, Hoàng Minh Tuấn, Nguyễn Văn Kim (méo), Lữ Liệt
Ðen, Nguyễn Văn Hồng, Ðặng Quỳnh.
Tháng 4 năm 1971 Pilot về
thêm: Dương Văn Hoanh, Lê Phước, Trần Ngọc. Cuối năm 1971 về: Lý Lạc
Long Tiên, Nguyễn Thế Nghiệp, Phan Ngọc Anh, Ðặng Chí Thông, Nguyễn
Văn Tiến, Võ Tuấn Kiệt, Lê Hồng Anh, Lương Ngọc Ánh, Lưu Ngọc Hoàng,
Nguyễn Tiến Thành, Phan Công Bơ, Nguyễn Văn Tiều, Nguyễn Ngọc (A),
Nguyễn Ngọc (B), Nguyễn Văn Nhan,
Trần Văn Hoa, Liêu Thụy Vinh,
Ðặng
Quân.
Qua năm 1972 Pilot ở Cần Thơ ra tăng cường: Trần Xuân
Thọ, Lê Văn Hiệp, Võ Văn Còn, Trần Mộc Ðảnh, Phan Văn Phúc (Nhảy
Dù). Sau tuần tự từ 1972 đến 1974 Pilot mới về thêm: Nguyễn Minh
Ðường, Lê Trung Phước, Nguyễn Hùng Lực, Lê Hoài Phương, Ðặng Phước,
Vũ Kim Long (Long nhí), Lê Văn Lập, Nguyễn Phúc Thiệu, Nguyễn Tuất,
Lý Hạnh, Lý Bổn Ðường, Võ Tuấn Kiệt, Lê Công Kiệt,
Nguyễn Văn Be,
Nguyễn Thành Phước (Cao), Trần Ngọc Sơn (Sơn mập), Tiêu Ngọc Hoà, Lê
Tuấn Nghĩa (ngựa), Duyên, Phước (trán trợt), Chiểu,
Hồ Văn Ðức,
Nguyễn Văn Hoè, Lý Chỉnh 229 qua 1974,
Dương Ðức Hạnh, Lê Văn Nãi,
Nguyễn Ðình Tuấn, Phan Toàn, Lê văn Lân, Nguyễn Văn Bá.
Tháng
8 năm 1970: Mevo về thêm: Hứa Tiến Hưng, Nguyễn Văn Thiết, Lại Công
Chính, Ðạt (lùn), Sơn (chà và), Tấn. Bổ sung bên 213 qua có Ðặng Văn
Nữu và Chuẩn úy Nguyễn văn Sinh.
Qua năm 1972 Mevo tiếp tục
về: Võ Văn Tốt, Nguyễn Ðịnh, Ðào Huy Trường,
Hướng, Vũ Văn Thanh
(Cần Thơ ra), Nguyễn Văn Lụa (gun down Lụa),
Mai Thanh Xuân, Trần
Văn Ðức, Nguyễn Thế Hùng, Lê Văn Vẹn, Nguyễn Phương Thảo, Phan Văn
Phước, Phạm Ngọc Phục, Nguyễn Văn Quan, Võ Văn Hùng, Lộc, Ngọc,
Nguyễn Văn Phụng, Phan Hiếu nghĩa, Trần Cảnh,
Nguyễn văn Mưa.
Gunner gồm có: Ðặng Văn Nhâm, Phạm Văn Hồng, Trần Văn Sang,
Ðặng
Xuân Khôi, Trần Hùng Hải (ruồi), Thân Ngọc Hải, Nguyễn Văn Hải
(khỉ), Trần Văn Hiệp, Nguyễn Văn Diệp, Nguyễn Thiện Trí, Trần Quang
Vinh, Lại trần Việt, Nguyễn Quang Ðạt,
Nguyễn Văn Ân, Phan Ngọc
Sang, Trần Thi Huệ, Trần Phát, Nguyễn Văn Nở, Nguyễn Văn Tài, Lê văn
Cải, Bảo, Quý, Ðức (mập), Hoa, Tiến (rỗ). Trần văn Nô,
Lê Văn Bổn.
Hoà TX, Nguyễn Văn Sang, Lưu Văn Thành.
Qua năm 1973, Chỉ huy
trưởng cuối cùng của Phi Ðoàn 219 là Thiếu tá Phạm Ðăng Luân (lúc
này anh Phạm Ðăng Luân đang làm Chỉ huy trưởng Phi Ðoàn 253 ở Ðà
Nẵng và đã Hoán chuyển với anh Huỳnh Văn Phố để về với PÐ219 và đây
cũng là cái duyên của Anh với Phi Ðoàn).
CÁC ANH THẦN PHONG –
LONG MÃ VÀ KINGBE – CÁC ANH ÐÃ TẠO NÊN MỘT TRANG SỬ HÀO HÙNG CHO
KINGBEE 219 NÓI RIÊNG VÀ CHO KHÔNG QUÂN VIỆT NAM NÓI CHUNG. TRONG ÐÓ
ANH NGUYỄN PHI HÙNG (Hùng râu kẽm) MỘT THỜI NHỮNG AI LÀ KHÔNG QUÂN
ÐỀU ÐÃ NGHE BIẾT TÊN ANH. ANH NGUYỄN VĂN PHƯỚC (Phước Đạo Dừa) NHỮNG
PHI CÔNG HOA KỲ ÐÃ CÙNG THAM CHIẾN SÁT CÁNH VỚI KINGBEE ÐỀU XEM ANH
NHƯ MỘT THIÊN THẦN. ANH NGUYỄN QUÝ AN (An cào cào) CHÍNH PHỦ HOA KỲ
CA NGỢI ANH VÀ KHEN TẶNG ANH LÀ MỘT ANH HÙNG. VÀ TẤT CẢ NHỮNG ANH EM
KINGBEE CÒN SỐNG HAY ÐÃ ANH DŨNG HY SINH CÁC ANH THẬT SỰ ÐÃ LÀM NÊN
HUYỀN THOẠI BẤT TỬ VÀ ÐỂ ÐỜI CHO THẾ HỆ MAI SAU.
(Theo đánh
dấu đậm màu đỏ,
Từ năm 1968 đến 1975 có tất cả 53 người hy Sinh
trong cuộc chiến, và màu xanh
đã ra đi vĩnh viễn do bệnh tật).
Và có hai anh đã gạch dưới tên khi rời 219 đã bị tai nạn và chết
như anh Phạm Vinh và chạm máy bay L19 tại Ðà Lạt và đã tử thương vào
mùa Noel. Anh Phạm Văn Trung về Cần Thơ sau làm Phi đoàn trưởng
Chinook và bị SA–7 bắn rơi tại Cái Bè.
PHẠM MINH MẪN
Nguồn:
https://btld219.blogspot.com/2013/03/the-immortal-219-kingbee-section-1-nhan.html
Những
bài liên quan
Bay Trong Lửa Đạn 1
Bay Trong Lửa Đạn 2
Bay Trong Lửa Đạn 3
Bay Trong Lửa Đạn 4
Bay Trong Lửa Đạn 5
Bay Trong Lửa Đạn 6
Hết
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Edge hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Hoa Pham/NKT chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, September 18, 2022
Liên lạc:
E-mail: NhaKyThuat@yahoo.com
Post Office Box 1982
Tustin, CA 92780-5112 U.S.A.
Trở lại đầu trang